Conan Fan Club |
|
| Sherlock Holmes mất tích - Jamyang Norbu | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Anfu
Tổng số bài gửi : 1317 Birthday : 03/04/1995 Age : 29
| Tiêu đề: Sherlock Holmes mất tích - Jamyang Norbu 2/1/2012, 21:08 | |
| First topic message reminder :Sherlock Holmes mất tích - Jamyang Norbu -
- Lời nói đầu:
Như vậy tôi đã du lịch hai năm ở Tây Tạng và tiêu khiển bằng cách viếng thăm Lhassa và trải qua vài ngày với vị Đạt Lai Lạt Ma. Có lẽ anh đã đọc về cuộc thám hiểm khác thường của một người Na Uy tên là Sigerson, nhưng tôi chắc rằng anh chưa bao giờ nghĩ mình đang đọc những tin tức về bạn anh. Sherlock Holmes Bí mật trong ngôi nhà trống Cả cuộc đời này chẳng phải thật thảm hại và phù phiếm hay sao? Chúng ta cố vươn tới. Chúng ta giành giật. Nhưng rốt cuộc còn lại gì trong tay ta nào? Chỉ là một cái bóng. Hoặc tệ hơn cả một cái bóng, đó là sự khổ đau. Sherlock Holmes Người bán thuốc vẽ về hưu Mandala (tiếng Tây Tạng: dkyil- khor) là một vòng tròn thiêng liêng bao quanh bởi những tia sáng hoặc là nơi thanh tẩy mọi ý tưởng phù du hoặc nhị nguyên. Nó được xem như một khối cầu tâm thức tinh khiết và rộng lớn vô cùng nơi các thánh thần an nhiên hiển lộ bản thân... Các mandala cần được hiểu như là những bức tranh nội tâm về toàn bộ thế giới trong tính toàn vẹn của nó; chúng là những biểu tượng mang tính sáng tạo chính yếu về sự tiến hóa và thoái hóa của vũ trụ, xuất hiện và trôi qua phù hợp với những quy luật như nhau. Từ quan điểm này chỉ còn một bước ngắn dể nhận thức được mandala như một nguyên lý sáng tạo trong mối tương quan với thế giới bên ngoài, thế giới vĩ mô - và vì vậy mà nó trở thành trung tâm của mọi tồn tại. Detlef Ingo Lauf Nghệ thuật linh thiêng của người Tây Tạng Từ thời này sang thời khác, Thượng đế đã khiến con người được sinh ra - ngươi cũng là một trong số đó - kẻ nuôi khao khát đi khỏi quê cha đất tổ, bất chấp cả tính mạng mình để khám phá những điều mới mẻ - ngày hôm nay là những gì xa lạ, ngày mai là ngọn núi còn ẩn mình và ngày sau nữa lại là những ai đó ngay bên cạnh vừa làm điều dại dột chống chính quyền. Những tâm hồn như vậy thật hiếm có; và trong số hiếm hoi ấy, có không quá mười người ưu tú nhất. Trong số mười người ấy, tôi phải kể đến Babu. Rudyard Kipling Kim Khi nào mọi người chết hết, cuộc chơi vĩ đại mới hoàn tất. Không phải trước đó. Hãy lắng nghe tôi cho đến tận cùng. Rudyard Kipling Kim Rất nhiều bản thảo chưa xuất bản của bác sĩ John Watson - thường tìm thấy trong "một cái hộp du lịch bằng thiếc cũ kỹ, móp méo, nằm đâu đó trong tầng hầm của Ngân hàng Cox & Company tại Charing Cross - mới được đưa ra ánh sáng trong những năm gần đây dành cho một lượng độc giả kiên nhẫn chẳng mặn mà lắm trong việc đón nhận thêm nữa phát hiện mới về câu chuyện liên quan đến Sherlock Holmes, thái độ của họ là hoài nghi, nếu không muốn nói là hoàn toàn không tin. Vì vậy, xin bạn đọc hãy rộng lượng, đừng vội đưa ra một đánh giá tức thì mà hãy chờ tới khi đọc xong phần giải thích ngắn gọn này, rằng làm thế nào - chủ yếu nhờ hoàn cảnh xuất thân có phần đặc biệt - mà tôi được thừa hường một tập bản thảo kỳ lạ nhưng có thật về hai năm quan trọng nhất trong cuộc đời Sherlock Holmes chưa được ai biết đến. Tôi sinh năm 1944 (năm Giáp Thân) ở thành phố Lhassa, thủ đô của Tây Tạng, trong một gia đình thương gia giàu có. Cha tôi là một người sắc sảo, từng du lịch nhiều nơi - từ Mông Cổ, Turkestan đến Nepal và Trung Quốc - vì việc kinh doanh, nên nhận thức rõ hơn đa số những người Tây Tạng khác về sự mong manh của đất nước hạnh phúc mà lạc hậu này. Hiểu rõ những lợi thế của một nền giáo dục tiên tiến, ông gửi tôi vào một trường dòng Tên tại miền đồi núi Darieeling, Ấn Độ, một vùng thuộc Anh. Cuộc sống của tôi tại trường Saint Joseph lúc đầu khá đơn độc, nhưng nhờ biết tiếng Anh nên tôi sớm có nhiều bạn bè và điều tốt đẹp hơn cả là tôi có điều kiện khám phá thế giới sách vở. Như nhiều thế hệ nam sinh khác, tôi tìm đến các tác phẩm của George Alfred Henty, John Buchan, Rider-Haggard và William Earl Johns và ngốn ngấu đọc từng trang. Tuy vậy, không gì có thể sánh được cái cảm giác hồi hộp đến run người khi đọc Kipling(1) hay Conan Doyle đặc biệt là những cuộc phiêu lưu sau này của Sherlock Holmes. Là một gã con trai người Tây Tạng, nhiều tình tiết trong những câu chuyện ấy thoạt đầu đã gây cho tôi một số hoang mang. Có lúc tôi đã tưởng "lò ga" là một loại bếp lò đốt bằng dầu hỏa và rằng "luật sư Penang" là một luật sư ở Penang; nhưng tất cả những chuyện như vậy chỉ là những trở ngại vặt vãnh và chưa bao giờ thật sự xen vào những đánh giá cơ bản tôi dành cho những tác phẩm này. Trong tất cả các câu chuyện về Sherlock Holmes, cuốn có sức mê hoặc tôi nhất là cuộc phiêu lưu trong Bí mật trong ngôi nhà trống. Trong câu chuyện xuất sắc này, Sherlock Holmes tiết lộ với bác sĩ Watson rằng trong suốt hai năm, khi cả thế giới đinh ninh rằng vị thám tử vĩ đại đã bỏ mạng tại thác Reichenbach thì thật ra ông lại đang du ngoạn đến quê hương tôi - đất nước Tây Tạng! Holmes vốn là người kiệm lời và hai câu dưới đây là tất cả những gì chúng ta biết được cho tới thời điểm này về cuộc hành trình lịch sừ của ông: "Như vậy tôi đã du lịch hai năm ở Tây Tạng và tiêu khiển bằng cách viếng thăm Lhassa và trải qua vài ngày với vị Đạt Lai Lạt Ma. Có lẽ anh đã dọc về cuộc thám hiểm khác thường của một người Na Uy tên là Sigerson, nhưng tôi chắc rằng anh chưa bao giờ nghĩ mình đang đọc những tin tức về bạn anh". Khi quay về Lhassa trong kỳ nghỉ đông ba tháng, tôi thử tìm hiểu về nhà thám hiểm người Na Uy đã đến đất nước tôi năm mươi năm về trước. Một người ông bên họ ngoại của tôi nhớ đã từng gặp một người nước ngoài như vậy ở Shigatse, nhưng thật ra ông nhầm người này với Ven Hedin, nhà dịa lý và thám hiểm nổi tiếng người Thụy Điển. Dù sao thì người lớn cũng có nhiều vấn đề nghiêm túc cần cứu xét hơn là những thắc mắc của một cậu học sinh về một du khách châu Âu đến đây từ hồi nảo hồi nào. Đúng thời điểm ấy, đất nước tôi bị Cộng quân chiếm đóng. Họ đã xâm lược Tây Tạng vào năm 1950 và sau khi đánh bại đội quân ít ỏi của người Tạng, họ tiến vào Lhassa. Ban đầu, người Trung Quốc không đàn áp công khai, mà chỉ từng bước thực thi những chương trình cực đoan và tàn bạo của họ nhằm mục đích thay đổi tận gốc xã hội truyền thống. Các bộ lạc thiện chiến như Khampa và Amdowa ở miền đông Tây Tạng tiến hành những cuộc nổi dậy, chẳng mấy chốc chúng đã lan rộng ra khắp nước. Quân chiếm đóng Trung Quốcc đã thực hiện những chiến dịch trả đũa tàn ác khiến hàng chục nghìn người dân bị tàn sát, và thêm nhiều nghìn người nữa bị bỏ tù hoặc buộc phải trốn khỏi quê hương. Tháng Ba năm 1959, người dân Lhassa, lo sợ cho tính mạng vị lãnh tụ của họ - Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi - bèn nổi dậy chống lại người Trung Quốc. Một cuộc đối đầu dữ dội nổ ra, nhưng lực lượng Trung Quốc tinh nhuệ hơn đã đè bẹp người Tạng, gây thương vong nặng nề và phá hủy nhiều nhà cửa. Tôi đang học năm cuối tại trường ở Darjeeling, thì cuộc nổi loạn nổ ra ở Lhassa. Tin tức khiến tôi phát ốm vì lo lắng cho số phận cha mẹ và người thân. Thông tin tử Lhassa vừa ít ỏi lại mơ hồ chẳng có gì khiến tôi có thể yên lòng. Nhưng sau một tháng trời ăn không ngon ngủ không yên, Đài Phát thanh Toàn Ấn đưa tin mừng rằng Đạt Lai Lạt Ma và những người ủng hộ ông, cùng với nhiều người tị nạn khác, đã thoát khỏi nước Tây Tạng bị chiến tranh tàn phá và an toàn đến được biên giới Ấn Độ. Hai ngày sau, tôi nhận được một lá thư đóng dấu bưu điện Gangtok. Đó là thư của cha tôi. Ông và các thành viên khác trong gia đình đều an toàn tại thủ đô của vương quốc nhỏ bé Sikkim, vùng Himalaya. Ngay từ những ngày đầu loạn lạc cha tôi đã không vội tin vào sự đảm bảo và thái độ làm ra vẻ thiện chí của người Trung Quốc, ông lặng lẽ chuẩn bị cho việc cao chạy xa bay. Ông bí mật chuyển hầu hết tài sản đến Darjeeling và Sikkim, vì thế gia đình chúng tôi ở vào hoàn cảnh có thể nói là rất may mắn nếu so với hầu hết dân tị nạn Tây Tạng khác, những người gần như lâm vào cảnh trắng tay. Sau khi tốt nghiệp, tôi quyết định toàn tâm phụng sự cho những người đồng bào bất hạnh nước mình. Tôi đến vùng nghỉ mát miền đồi núi cao ở Dharamsala, nơi Đạt Lai Lạt Ma(2) thành lập chính phủ lưu vong, và chẳng bao lâu nhận nhiệm vụ dạy dỗ con em những người tị nạn. Sếp của tôi là một học giả cao niên trước từng là người đứng đầu Văn khố Chính phủ Tây Tạng tại Lhassa, đồng thời là một nhà nghiên cứu lịch sử. Sở học của ông về Tây Tạng thật uyên thâm, và ông không thích gì hơn là được chia sẻ cái vốn quý đó ông có thể nói chuyện thâu đêm suốt sáng về Tây Tạng trong một quán trà nhỏ xiêu vẹo chỉ với một cử tọa trẻ tuổi người Tạng đầy say mê như tôi, và thấm đẫm trong chúng tôi kiến thức cùng sự ngạc nhiên kỳ thú về đất nước tươi dẹp của mình. Một hôm, tôi thử hỏi xem liệu ông đã bao giờ nghe nói về một du khách người Na Uy tên Sigerson từng đặt chân đến Lhassa chưa. Lúc đầu ông cũng nghĩ tôi đang hỏi về Sven Hedin - một nhầm lẫn hoàn toàn có thể hiểu được - bởi những văn bản địa lý của người Tây Tạng vừa không chính xác vừa đậm màu sắc hoang đường; khi miêu tả những đất nước xa xôi, chúng thường có xu hướng đánh đồng các quốc gia vùng Scandinavia và Baltic thành các nước chư hầu của đế chế Sa hoàng. Nhưng bằng cách giải thích rằng người Na Uy đó đã đến Tây Tạng vào năm 1892 chứ không phải năm 1903 như người Thụy Điển kia, tôi đã tìm được cách rung một hồi chuông gợi nhắc một nơi nào đó trong ký ức rối rắm của ông già. Ông nhớ rằng mình đã từng đọc một dẫn chiếu trong kho lưu trữ của chính phủ về chuyến viếng thăm của một người châu Âu vào năm Nhâm Thìn (1892). Ông đã lưu tâm đến việc này trong khi đối chiếu tài liệu tại trung tâm lưu trữ tại Lhassa để chuẩn bị bản bố cáo lý lịch chính thức cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Ông để ý đến một bản ghi chép ngắn gọn về thị thực đi đường của hai người ngoại quốc. Ông chắc rằng một trong hai người đó là người châu Âu mặc dù ông không nhớ được tên. Người kia là người Ấn Độ. Ông nhớ chuyện đó rất rõ, vì mấy năm sau người Ấn Độ đó bị nghi ngờ làm gián điệp cho người Anh. Tên ông ta là "Hari Chanda". Tôi thật sự chấn động trước tầm quan trọng của điều tiết lộ này, vì tôi đã nghe, hay đúng hơn là đã đọc, về Hurree Chunder Mookeriee (theo tên đầy đủ và cách phát âm được Anh hóa của nó) trong tiểu thuyết Kim của Ruyard Kipling. Ít người ở bên ngoài Ấn Độ nhận thức được rằng trong thực tế, Kipling đã xây dựng nhân vật điệp viên hư cấu người Bengal của mình - một người mập mạp, ba hoa, ưa lấy lòng người khác nhưng có tài xoay chuyển tình thế, tên là Hurree Babu - dựa trên một nguyên mẫu ngoài đời, một học giả vĩ đại người Bengal từng có thời làm diệp viên cho Anh, nhưng ngày nay được nhớ đến nhiều hơn bởi những đóng góp của ông trong lĩnh vực Tây Tạng học. Ông đã trải qua phần lớn thời thanh xuân của mình tại Darjeeling và ở phương diện nào, khá nổi tiếng trong cái thị trấn nhỏ nằm trên cao nguyên đó, cùng với những danh hiệu C.I.E., F.R.S.(3) và nhiều vinh dự lớn lao khác mà các nhân sĩ hàng đầu nước Anh thời đó dành cho ông. Babu chết vào năm 1928 tại nhà của mình ở biệt thự Lhassa. Lần sau, khi trở lại thăm gia đình, lúc đó đã chuyển về Darjeeling sống, tôi đã làm một chuyến đi bộ từ đường Hill Cart đến biệt thự Lhassa. Bây giờ thì nó thuộc về một người trồng trà đã về hưu tên Siddarth Mukherjee chay "Sid" như ông khăng khăng buộc tôi gọi như vậy, ông là chắt gọi nhà học giả, điệp viên nổi tiếng của chúng ta là cụ. Sid kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện lòng vòng và phức tạp mà tôi trình bày với ông, đại loại: Hurree Chunder Mookeriee đã xuất bản một cuốn sách về chuyến du lịch của ông đến Tây Tạng có tên: Hành trình đến Lhassa qua miền tây Tây Tạng, nhưng không hề nhắc đến bất cứ người châu Âu nào đi cùng. Chắc hẳn, ông đã làm vậy trước sự nài ép của Sherlock Holmes, người vào thời điểm đó đang cố giữ làm sao cho sự tồn tại của mình là một điều bí mật với toàn thế giới. Tôi hy vọng nếu đọc được những ghi chép, thư từ, nhật ký và những giấy tờ cá nhân khác của Hurree, thì biết đâu tôi lại có thể tìm được một đầu dây mối nhợ dẫn đến những tiết lộ về Sherlock Holmes, hay ít nhất là về nhà thám hiểm người Na Uy(4). Sid run lên vì xúc động khi biết rằng cố nội của mình có thể quen biết nhà thám tử tài ba nhất thế giới, nên đã tỏ ra trên cả nhiệt tình trong việc giúp đỡ cho cuộc tìm kiếm của tôi. Hầu hết giấy tờ của Hurree đều được cất giữ trong mấy cái thùng thiếc lớn để trên gian áp mái của biệt thự Lhassa sau khi ông qua đời. Tôi mất cả tuần lễ lục lọi đống tài liệu cũ nát bụi bặm, nhưng ngoài cảm giác lạnh lẽo buồn bã, tôi chẳng tìm thấy gì có ích, tuyệt không một dòng nào nhắc đến người mà ta có thể phỏng đoán là Sherlock Holmes. Nỗi thất vọng của tôi không thể che giấu được. Sid thật tử tế, ông cố làm tôi phấn chấn lên bằng lời hứa sẽ liên hệ ngay với tôi, nếu ông tìm được bất cứ thứ gì có thể đóng góp cho nghiên cứu của tôi. Cứ như vậy nhiều năm trôi qua. Công việc chiếm tất cả thời gian và sức lực của tôi và tôi hầu như cũng đã quên bẵng việc nghiên cứu sớm thất bại từ trong trứng nước của mình, nhưng rồi cách đây đúng năm tháng, tôi nhận được một bức điện từ Darjeeling. Chỉ có ba chữ cụt lủn, nhưng đầy hứa hẹn: "Tìm ra rồi. Sid" Tôi chỉ kịp mang theo bàn chải đánh răng. Tóc Sid đã bạc đi một chút, biệt thự Lhassa cũng không còn chống chọi tốt với mưa nắng dãi dầu nữa. Tôi nhận thấy một phần tường phía sau nhà đã sụp xuống. Nhưng chủ nhân của nó thì vô cùng bồn chồn. Ông lão hối hả bảo tôi ngồi xuống ghế, nhét vào tay tôi một ly whisky pani to tướng và để tôi nhấm nháp. Đúng một tuần trước đó, Darjeeling trải qua một cơn địa chấn khá mạnh - về mặt địa chất mà nói, Himalaya là một dãy núi khá non trẻ và vẫn còn đang trong quá trình kiến tạo. Cơn địa chấn không đủ mạnh để gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, nhưng một đợt gió mùa bất thường kéo dài tiếp sau đó đã gây nên hiện tượng sụt lở đất ở các sườn núi dẫn đến việc làm hư hại một số nhà cửa trong thị trấn. Biệt thự Lhassa không bị hư hỏng nặng, chỉ có một phần bức tường phía sau sụp xuống. Trong lúc kiểm tra thiệt hại, Sid phát hiện ra một cái hộp bằng thiếc bẹp rúm được giấu bên trong mảng tường bị sập. Lôi cái hộp ra khỏi đống đổ nát, ông thấy trong đó có một gói dẹt được bọc cẩn thận bằng giấy sáp và cột kỹ càng bằng một sợi dây bện rất chắc. Ông mở gói đồ và tìm thấy một tập bản thảo, dày khoảng hơn hai trăm trang với nét chữ viết hoa mỹ không lẫn đi đâu được của cụ cố. Trong tâm trạng xúc động, ông cắm cúi đọc một mạch không nghỉ, đọc xong thì trời cũng vừa rạng. Tất cả đều nằm trong đấy. Hurree đã gặp Sherlock Holmes. Ông đã cùng Sherlock Holmes thực hiện một cuộc hành trình đến Tây Tạng; và vì vậy mà đặt bản thân mình vào những tình huống nguy hiểm và lạ lùng tới mức không thể tin được. Như vậy, Babu đã không thể cưỡng lại được sự hối thúc của nội tâm và ông đã thẳng thắn giãi bày trên giấy sự thực về những kinh nghiệm của mình, nhưng ông cũng đủ thận trọng tìm cách giấu nó bên trong bức tường phía sau nhà; có lẽ với hy vọng rằng nó sẽ được đưa ra ánh sáng trong một tương lai xa nào đó khi "Cuộc chơi vĩ đại" đã trôi qua, và lúc đó mọi người có thể biết đến cuộc phiêu lưu của ông cùng với nhà thám tử vĩ đại nhất thế giới chỉ với sự kinh ngạc và thán phục. Sid lấy tập bản thảo ra khỏi ngăn kéo và đặt vào đôi tay đang run rẩy của tôi. Biết tôi cũng có máu văn chương viết lách, Sid cố nài tôi phụ trách khâu biên tập và xuất bản bản thảo trên. Nhưng trong thực tế ngoài việc bổ sung thêm một số chú giải, tôi chỉ phải sửa rất ít. Babu là một cây bút tài hoa và có kinh nghiệm, văn phong độc đáo, đầy khí lực của ông hẳn sẽ giảm sút đi nếu bị chỉnh sửa quá nhiều. Sid và tôi chia đôi số tiền thu được từ cuốn sách, mặc dù cả hai chúng tôi đều nhất trí rằng bản thảo gốc cùng với bản sao bản đồ Tây Tạng đi kèm, vì tính lịch sử quan trọng của nó, nên được trao cho một viện nghiên cứu nào đó, nơi các học giả và giới chuyên môn có thể tự do sử dụng. Tây Tạng có thể bị nghiền nát dưới sức nặng chết người của chính thể chuyên chế Trung Hoa, nhưng sự thật về Tây Tạng không thể dễ dàng bị chôn vùi; và thậm chí một tác phẩm dở dang, kỳ lạ về lịch sử như thế này cũng có thể góp phần "đóng đinh câu rút" ít nhất là một vài tên bạo chúa. Tháng 10 năm 1988 Jamyang Norbu Địa chỉ Nalanda Cottage Dharamshala Chú thích:(1) Joseph Rudyard Kipling (1865-1936): nhà thơ. nhà văn người Anh nhưng sinh ra ở Ấn Độ, nổi tiếng với những cuốn sách dành cho trẻ em như Jungle book, The second jungle book, Kim (2) Đạt Lai Lạt Ma dịch nghĩa là "Đạo sư với trí huệ như biển cả". Danh hiệu này do nhà vua Móng Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách Lỗ (t: gelugpa. Hoàng giáo) năm 1578. Kể từ năm 1617 trở đi. Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đây, người ta coi Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quan Thế âm. Mỗi một Đạt Lai Lạt Ma đều được xem là tái sinh của vị Đạt Lai Lạt Ma trước. (3) C.I.E tức commader, một trong ba phẩm trật của Order of Indian Empie (huân chương đế chế Ấn Độ): một phẩm tước hiệp sĩ được nữ hoàng Victoria lập ra vào năm 1877. Hai phẩm trật kia, cao hơn C.I.E. là GCIE (Knight Grand Commander) và KCIE (Knight Commander). F.R.S. viết tắt từ Fellow of the Royal Society, một tước vị phong cho những nhà khoa học kiệt xuất của đế chế Anh, và là một loại thành viên của Hội Khoa học Hoàng gia Anh. Các thành viên này được phép ghi ba chữ FGS sau tên mình. (4) Tôi đã tưởng đâu cuối cùng thì mình cũng "chạm" tới được người Na Uy bí ẩn, khi tình cờ đọc cái tựa sách này tại Nhà sách Oxford. Darjeeling: Một du khách Na Uy ở Tây Tạng Per Kvaeme (Bibliotheca Himalaylca. Bộ 1 tập 13). Manjusri. New Delhi. 1973. Đáng tiếc, đây chi là văn bàn về một người Na Uy chính cống vốn là nhà truyền giáo.
|
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Anfu
Tổng số bài gửi : 1317 Birthday : 03/04/1995 Age : 29
| Tiêu đề: Re: Sherlock Holmes mất tích - Jamyang Norbu 24/3/2012, 20:23 | |
| Lời Kết
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 người trong câu chuyện của Hurree, tạ thế vào ngày thứ 13 tháng thứ mười năm Quý Dậu (17 tháng Mười hai năm 1933). Một năm trước khi mất, ông đã công bố di chúc chính trị và những lời cảnh tỉnh cuối cùng. "Một điều có thể xảy ra," ông tiên đoán "ở tại đây, tại Tây Tạng này là tôn giáo cũng như chính phủ sẽ lâm vào cảnh thù trong giặc ngoài. Trừ phi chúng ta có thể bảo vệ đất nước, nếu không Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma, Cha và Con, cùng tất cả những người nắm giữ Niềm tin đáng kính khác sẽ biến mất mà không ai biết đến. Giới tăng lữ và các tu viện của họ sẽ bị huỷ diệt. Luật pháp sẽ bị suy yếu. Đất đai và tài sản của các văn phòng chính phủ sẽ bị chiếm giữ. Chính họ cùng sẽ buộc phải phục vụ cho ngoại bang hoặc phiêu bạt như những kẻ vô gia cư, vô sản nghiệp. Tất cả sẽ bị đắm chìm trong vô vàn khó khăn và nỗi sợ hãi triền miên, ngày và đêm sẽ kéo dài vĩnh viễn trong nỗi đau khổ". Nhưng những lời cảnh báo của Đức Đạt Lai vĩ đại thứ 13 đã bị bỏ qua bới giới tăng lữ mù quáng bạc nhược và tầng lớp quý tộc yếu đuối, họ đã khiến cho các tác phẩm bất hủ của ông bị xếp xó, phong trào cải cách của ông lụi tàn và trở nên vô dụng, tình hình đất nước tệ hại đến mức khi Hồng quân Trung quốc tràn vào Tây Tạng tháng Mười năm 1950, họ chỉ gặp phải sự kháng cự tự phát vô tổ chức của một bộ phận dân chúng. Sau đó, những đêm trường vô tận bắt đầu. Sau khi đập tan mọi ý thức phản kháng, chính quyền Trung quốc bắt đầu thực hiện các chiến dịch có tính hệ thống để nô dịch và đồng hoá người Tây Tạng và cách sống của họ. Các phong trào đàn áp đạt đến đỉnh điểm trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hoá và vãn tiếp tục cho đến ngày nay với những mức độ bạo lực và tàn ác khác nhau. Hiện nay, thực hiện chủ trương nhổ trừ tận gốc không gì thuộc về nét văn hoá và đặc tính dân tộc của người Tây Tạng - những gì vẫn còn sót lại sau những chiến dịch diệt chủng trước đó - Bắc Kinh có động thái "mở cửa Tây Tạng” cho làn sóng nhập cư người Trung quốc; lớp người này đông đến mức người Tạng mau chóng trở thành một tộc người thiểu số tại chính quê hương mình. Tại Lhassa người Tạng là một dúm người dị tộc không đáng kể trong biển người Trung quốc. Thậm chí, lực lượng cảnh sát và binh sĩ Trung quốc trong và ngoài thành phố còn đông hơn cả dân Tây Tạng chính gốc. Họ có mặt ở đó để ngăn chặn và đàn áp. Những cuộc điều tra mới nhất cho biết hơn sáu nghìn tu viện, đền đài và các đi tích lịch sử đã bị phá huỷ, cùng với cơ man những tác phẩm nghệ thuật, tôn giáo quý giá - và vô số sách quý ban thảo về nền học thuật cổ xưa, có một không hai của Tây Tạng. Hơn một triệu người Tạng đã bị chết do án tử hình, tra tấn và bị bỏ đói, trong khi hàng trăm nghìn người khác bị cưỡng bách làm nô lệ trong một trại tập trung ở nhưng nơi xa xôi và hoang vu nhất vùng Đông Bắc Tây Tạng, nơi rõ ràng là một trại tập trung thuộc loại lớn nhất thế giới. Những người tị nạn may mắn thoát khỏi cơn ác mộng này đã cố làm sống lại một phần cách sống truyền thống của tổ tiên ở nơi đất khách quê người. Các chùa chiền, thiền viện, trường học và viện âm nhạc, nhà hát, cơ sở y tế, tác phẩm hội hoạ, các vật phẩm kim khí, nhiều ngành nghệ thuật và thu công khác bắt đầu phát triển trong và ngoài Dharamsala - thủ phủ của dân Tây Tạng lưu vong - và nhiều nơi khác ở Ấn Độ, cùng các quốc gia khác trên khắp thế giới, nơi người dân Tây Tạng tha phương tìm được một mái nhà mới cho mình. Trong thời gian ở Dharamsala, nơi tôi có một chân trong Bộ giáo dục của chính phủ lưu vong, một hôm tôi nghe nói có một số tu sĩ từ tu viện Bạch Phượng Hoàng (trong Thung lũng Trăng Rám) vừa trốn thoát đến Ấn Độ. Thậm chí họ còn cố gắng gây dựng một cộng đồng nhỏ trong một ngôi nhà gỗ một tầng kiểu Anh đổ nát, nằm ngay bên ngoài thành phố Dharamsala. Sau một giờ đồng hồ lặn lội trên con đường mòn vùng núi, tôi cũng đến được căn nhà gỗ ọp ẹp này. Một vài nhà sư già đang đọc kinh, họ ngồi trong tư thế kiết già trên một thảm cỏ bị giẫm nát trước nhà. Tôi hỏi một trong số họ xem tôi có thể gặp người đứng đầu nơi này không. Vài phút sau, một nhà sư có tấm thân hộ pháp, tính tình vui vẻ, có nét gì đó giông giống diễn viên hài người Pháp Fernandel, bước ra khỏi căn nhà gỗ lịch sự hỏi xem tôi đến có việc gì. Tôi đưa cho ông một túi trái cây, rau quả mà tôi mang theo để cúng dưỡng chư tăng và thấy vui vẻ trong lòng khi họ vui mừng nhận lấy. Tôi được mời ngồi lên một chiếc ghế lung lay như răng ông lão trong phòng cầu nguyện vắng vẻ vì vào lúc này, phần lớn các chú tiểu đã đi nhặt củi ở khu rừng gần đó. Một ngọn đèn nhỏ bằng bơ bò yak đang cháy sáng trên một cái bàn thờ tạm thời, đặt trên bệ lò sưởi cũ kiểu Anh. Một tấm lịch có chân dung Đạt Lai Lạt Ma lồng trong khung mạ vàng rẻ tiền được đặt chính giữa bàn thờ. Bên cạnh đó là hai chiếc lọ rẻ tiền cắm nhưng bông hoa đỗ quyên thắm đỏ, thường nở đầu trên các sườn núi vào mùa này trong năm. Tôi bắt đầu bằng cách trao đổi những câu thăm hỏi thông thường với nhà sư dáng vạm vỡ ngồi đối diện với tôi trên một chiếc thùng gỗ dùng để đựng hàng. Nước uống mời khách được bưng ra, và tôi đoán rằng đó là thứ được pha bằng loại sữa bột hiệu CARE nghe rất rõ mùi của những hoá chất bảo quản không tên nào đó. Sau khi hớp một vài ngụm cho phải phép, tôi đi vào việc chính. Tôi hỏi sư trụ trì xem không biết có nhà tu hành nào ở đây còn nhớ đến một người da trắng, một quý ông người Anh, thực chất là hoá thân của một Lạt Ma từng ở trong thiền viện của họ không. Thật lòng, tôi hỏi cầu âu vậy thôi chứ không nuôi hy vọng gặp được ai đó còn nhớ được ít nhiều chuyện này, nhất là đã hơn mười chín năm trôi qua kẻ từ thời điểm Sherlock Holmes có mặt trong tu viện, vả chăng cũng có rất ít những bậc trưởng lão còn sống sót sau khi tu viện bốc cháy rồi chạy đến tá túc ở khu nhà gỗ phía Bắc Ấn Độ này Vì thế thật là một ngạc nhiên kỳ thú khi nhà sư phương phi gật đầu xác nhận chuyện đó. Phải, ông nhớ đã được nghe kể nhiều về quý ông người Anh từng là tu viện trưởng của họ. Một hay hai vị sư già hơn cũng nhớ chuyện này, trong khi những người trẻ hơn, những chú tiểu thì không biết rõ lắm. Tôi đặt ra nhiều câu hỏi, quan tâm đặc biệt đến thời điểm Sherlock Holmes đến tu viện và khoảng thời gian ông ở lại lần đầu tiên và nhận được từ nhà sư những câu trả lời rất chính xác. "Thưa ông.…” ông nói giọng từ tốn ân cần, “nếu quả ông có lòng quan tâm đến trulku của chúng tôi, tôi có thể mời ông xem một vật có thể khiến ông chú ý”. Ông quay sang nói với một nhà sư khác và cử vị này đi lấy một vật gì đó. Người này sớm quay lại từ một căn phòng bên trong với một chiếc hộp hình chữ nhật gói trong một vuông vải lụa cũ kỹ, rồi trao cho nhà sư đang tiếp chuyện tôi. Vị chủ nhà cung kính tháo lớp vải bọc ngoài để lọ ra một cái hộp đựng công văn bằng thiếc còn cũ kỹ hơn nữa khiến trái tim trong lồng ngực tôi giật thót lên một cái. Ông mở chiếc hộp. Bên trong, năm giữa một vài vật dụng của những người tu hành là một chiếc kính lúp sứt mẻ và một tẩu thuốc bằng gỗ anh đào xưa cũ mòn vẹt. Thoạt đầu tôi nghẹn ngào không thể nói nên lời, và sau khi trấn tĩnh lại, tôi thật xấu hổ phải thú nhận rằng trong cơn kích động trước nhưng phát hiện vô giá này, tôi đã bộp chộp nêu ra một yêu cầu thô lỗ và thiếu cân nhắc. “Thầy có thể nhượng lại cho tôi hai vật này không tôi chỉ vào chiếc kính lúp và tẩu thuốc”. "Tôi e điều này thì không thể được," nhà sư mỉm cười đôn hậu, không lấy làm điều về đề nghị bất nhã của tôi. "Ông cũng biết đấy, những vật này hết sức quan trọng đối với tu viện chúng tôi. Mặt khác, chúng còn có những giá trị về phương diện tình cảm đối với tôi". "Thầy nói vậy là có ý gì, thưa thầy” tôi bối rối hỏi lại. “À, đây là những món tôi đã chọn khi còn là một đứa trẻ vào lúc chúng tìm đến tôi". “Gì cơ?” tôi kêu lên "Ý thầy là…” “Phải," ông trả lời với một cái nháy mắt tinh nghịch. “Ngài không nên quá kinh ngạc như thế”. “Nhưng đó là điều không thể!”. "Không thể ư, thưa ông! Hãy cân nhắc sự thật một cách cẩn trọng” ông nói với dáng vẻ của một ông thầy đang lên lớp cho học trò, “rồi hãy áp dụng câu châm ngôn cũ này của tôi, một khi bạn đã loại trừ điều không thể bất cứ thứ gì còn lại, dù không thể xảy ra, ắt hắn là sự thật". Trong lúc tôi ngồi nhìn ông trong căn phòng tối chỉ được thắp sáng bằng một ngọn đèn duy nhất thắp bằng bơ yak, ông bắt đầu cười khe khẽ theo một kiểu lặng lẽ rất riêng. Mọi cuộc hành trình đều kết thúc ở màn thanh toán tiền nong: trả tiền cho phu khuân vác, người dắt la hoặc điều khiển lạc đà và thưởng cho nhân viên, đặc biệt là những người dẫn đường đáng tin cậy và tất nhiên là sirdar(1) người lãnh đạo vô giá và là nhà tổ chức của đoàn hành hương. Đó cũng là lúc bạn phải tìm ra những lời thích hợp để cám ơn và đền đáp cho sự đóng góp của mỗi người bạn đồng hành trung thành, ít nhất cũng là vì vô số những nghĩa cử đẹp đẽ và tinh thương yêu mà bạn đã nhận được trên mỗi chặng đường.Đầu tiên và trên tất cả, tôi ý thức được món nợ lớn lao đối với hai nhà văn nổi tiếng nhất nước Anh thời Victoria là Arthur Conan Doyle và Rudyard Kipling, chính là nhờ những tác phẩm vĩ đại của họ mà cuốn sách cóp nhặt nhỏ nhoi của tôi mới được tượng hình thai nghén và nuôi dưỡng - cũng như cái cách mà một loài động vật được nhắc đến trong truyện đã làm.Sáu mươi cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes được ghi chép lại dưới ngòi bút John H. Watson được hậu thế biết đến như là "bậc thầy" của "Các tác phẩm thiêng liêng". Những tác phẩm viết về Sherlock Holmes cũng tương đương với "Kangyur" trong Phật giáo Tây Tạng, là cội nguồn quan trọng cho cảm hứng và cuộc tìm kiếm tri thức; không chỉ trên cơ sở lập luận mà còn cho văn phong và thậm chí bối cảnh cho tác phẩm của tôi.Nhìn chúng bạn đọc đông đảo thường không nhận biết được giá trị tham khảo của những bài phê bình về Holmes vốn được xem như là "Tác phẩm thứ hai", mà trong Lạt Ma giáo có một từ tương đương rất hay là "Tengyur" - hoặc những lời phê bình. Rất nhiều những "Tác phẩm thứ hai" đã thảo luận về đề tài này, có giá trị nhất trong số đó là tác phẩm kinh điển của Vincent Starret, Cuộc sống riêng tư của Sherlock Holmes và tất nhiên là tác phẩm của William S. Baring-Gould, Sherlock Holmes ở đường Baker, ngoài ra còn có bộ sưu tập lớn có chú thích toàn bộ các câu chuyện về Sherlock Holmes. Tôi cũng nên nhắc đến hai nỗ lực từ rất sớm trong việc xây dựng lại khoảng thời gian Sherlock Holmes ở Tây Tạng, đó là cuốn Sherlock Holmes ở Tây Tạng của tác giả Richard Wincor và tác phẩm The Adamatine Sherlock Holmes của Hapi.Hạt giống ý tưởng đầu tiên về tác phẩm mandala of Sherlock Holmes được gieo trong đầu tôi là của John Ball tiên sinh (một học giả Oxford đầy tham vọng) tác giả nổi tiếng của tiểu thuyết (Trong cái nóng nực ban đêm, v.v..., chủ tịch Hội đoàn Los Angeles Scion Society (về Sherlock Holmes) và Master Copper-Beech-Smith of the song of the Copper Beeches, ở Phiìadelphia, người trong một đêrn đông lạnh lẽo tại Dharamsata năm 1970 đã kiểm tra một cách cẩn thận kiến thức của tôi về "Những tác phẩm thiêng liêng", để đi đến kết luận mà ông đã long trọng tuyên bố khi chào mừng tôi gia nhập vào Baker Street Irregulars. (John Ball, "Con đường của một Master", Tạp chí Baker street, tháng 3 1971, Vol. 21, No.1, New York)Kim - cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Ruyard Kipling về Ấn Độ thuộc Anh, được Nirad Choudhari xem là câu chuyện đẹp nhất về Ấn Độ thuộc Anh là nguồn cung cấp những thông tin địa lý cho bối cảnh của câu chuyện, nhất là hoàn cảnh ra đời của "Cuộc chơi vĩ đại" cùng một số nhân vật của nó - những nhân vật không thể thiếu từ Bengali Boswell cho đến Giáo sư. Những truyện ngắn khác của Kipling, đặc biệt trong những tuyển chọn này: Chiếc xe kéo ma quái và tác câu chuyện kỳ quái khác, Câu chuyện của núi dồi, và Dưới những cây thông tuyết đã cung cấp thêm nhiều chi tiết thú vị khác.Tôi không cho phép mình quên những kiến thức thu lượm được trong các tác phẩm của Sarat Chandra Das, một học giả đồng thời là điệp viên người Bengal nổi tiếng, đó là nguồn cảm hứng thật sự cho nhân vật Hurree Chunder Mookerjee của Kipling. Tác phẩm quan trọng của Das đã tạo thêm sinh khí cho cuốn cách này là Hành trình đến Lhassa và Trung tâm Tây Tạng. Tôi cũng phải nhắc đến tác phẩm Xuyên qua Himalaya của Sven Hedin, nó đã cung cấp chất liệu trong việc chuẩn bị cho hành trình của Holmes đến Lhassa.Về bối cảnh của Ấn Độ và sự cai trị của Anh ở Ấn Độ: tác phẩm Hướng dẫn đến Simla và vùng lân cận của tác giả Sood, cuốn Những câu chuyện rút được từ sự cai trị của Anh ở Ấn Độ của tác giả Charles Allen, cùng tác phẩm sự cai trị của Anh ở Ấn Độ, một cuốn ghép hình về Anh-Ấn, Ấn Độ thuộc Anh của Geoftrey Moorhouse; Phong tục và đặc điểm của Ấn Độ thuộc Anh của Evelyn Battye, tất cà đều là những nguồn mà tôi đã vay mượn ít nhiều để dựng lại đoạn miêu tả về cảnh sát giao thông ở Bombay. Còn về tôn giáo, tôi có tham khảo những tác phẩm của Kazi Dawa Samdup và Evans Wentz liên quan đến "phowa và Trongiug", cuốn Shambala: ốc dào ánh sáng của Andrew Tomas; những tác phẩm của Carl cũng liên quan đến những vật thể bay lạ trong không gian và mandala trong bộ sưu tập đồ sộ của ông. Nền văn minh trong buổi giao thời. Những học giả và nhà văn khác có những tác phẩm được nhắc đến và ghi lại trong phần chú thích và trích dẫn. Xin được cám ơn Gyamtso vì hai tấm bản đồ, cám ơn Pierre Stilli, Lindsey và đặc biệt là Christopher Beauchet vì những đóng góp cho những hình ảnh minh hoạ ban đầu. Tôi cũng xin cám ơn Esther vì đã đánh máy toàn bộ bản thảo này.Tôi mang ơn Shell và Roger Larsen vì lòng mến khách nhiệt tình, không có giới hạn mà họ dành cho tôi trong giai đoạn tôi bắt đầu viết sách và sự ủng hộ của Tamsin. Tôi cũng biết ơn những người bạn Tashi Tsering và Lhasang Tsering vì đã hiệu đính, đề nghị và đôn đốc thường xuyên để "mandala" được xuất bản; tôi cũng xin cám ơn Patrick French vì những lời khuyên đáng giá và sự động viên hào phóng. Tôi phải cám ơn người biên tập đầu tiên - Aradhana Bisht - với những lời nhận xét hữu ích về nhân vật Hurree. Tôi đặc biệt cám ơn Jan Smith, Anthony Sheil, Elenora Tevis, Susan Schulman, Jenny Manriquezl và các cựu đại sứ Mỹ ở Ấn Độ là Frank Wisner, Tenzin Sonam, Riêu Sarin, giáo sư Sondhi và bà Madhuri Santanam Sondhi vì sự động viên quý giá và sự giúp đỡ trong việc cho ra đời cuốn sách này. Xin cám ơn Amalay Regzin và nhất là Tenzing và Nam kha vì tình yêu và sự ủng hộ vô bờ bến.
Chú thích: (1) Sirdar: người đứng đầu, ng trưởng nhóm hoặc người tổ chức một đoàn buôn hoặc một cuộc thám hiểm (tiếng Hindu) Bảng chú giải ngắn về từ và câu Hindu, tiếng Anh-Ấn, tiếng Phạn, Tây Tạng và Trung quốc.Amban: người đại diện cho triều đình Mãn Thanh ở Lhassa.Angrezi: Người Anh (tiếng Hindi-Urdu) (Hindustani là từ trong tiếng Anh để chỉ cả hai thứ tiếng Hindi (ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ) và tiếng Urdu (ngôn ngữ chính thức của Pakistan), mà theo giới ngôn ngữ học là hai phương ngữ của cùng một thứ tiếng). Tiếng "Hindustani" cũng được viết là tiếng Hindi-Urdu)Anna: đơn vị tiền tệ Ấn Độ bằng 1/16 đồng rupi.Argon: con của một cuộc hôn nhân giữa người Yarkandi và Ladakh hay người bản xứ Spiti.Arre! diễn tả sự kinh ngạc (tiếng Hindi-Urdu).Arya- arta: cùng đất cao quý, Ấn Độ (tiếng Phạn).Babu: người bần xứ có học thức làm công chức nhà nước (tiếng Hindi-Urdu).Bahadur: anh hùng, dũng cảm (tiếng Mông Cổ, Hindi-Urdu).Baksheesh: tiền boa, tiền trà thuốc (tiếng Hindi-Urdu).Bakwas: vô lý, nhảm nhí (tiếng Hindi-Urdu).Baapre-baap: cha ơi (tiếng Hindi-Urdu).Baraat: đám rước dâu (tiếng Hindi-Urdu).Bảy Báu vật (Seven Articles): Bày Báu vật hoàng tộc gồm Nữ hoàng cao quý, Bộ trưởng cao quý Trưởng tu viện cao quý, Ngọc ước quý giá, Bánh xe quý Voi quý và Ngựa quý.Bearer: người hầu, người phục dịch trong nhà (tiếng Anh-Án).Benaras: thành phố thảnh của người Hindu, ở bên bờ sông Hằng.Betel nut: quả cau.Bewakoof. đồ ngốc (tiếng Hindi-Urdu).Bhangi: người ở, người giúp việc (tiếng Hindi-Urdu).Bhisti: những người mang nước (tiếng Hỉndi-urdu).Bhocia: dân Tây Tạng, hay dân tộc Tây Tạng ở Himalaya Ấn Độ (tiếng Hindi-Urdu).Bi đi: điếu xì gà nhỏ của người bản xứ (tiếng Hindi-Urdu).Bikaner: một tiểu vương quốc và thành phố tráng lệ trước đây ở Rajastan.Bilaur: pha lê (tiếng Tây Tạng).Bistra: túi ngủ tiếng Tây Tạng).Bodhistat~a: dịch âm Hán ~lẹt là Bo-đề T~á~doa hay còn gọi là "Ồ Tá(. Trong Phật giáo Đại thừa, Bồ tát là hành gia sau khi hành trì đã đạt thành tựu (Phật qua) nhưng nguyện không nhập Niết bàn khi chúng sanh chưa giác ngộ (tiếng Phạn)."rahmo Somay ~Xã hội thần thánh là khái niệm được nêu ra của Rajam Ram Mohan Roy: nhà cải cách vĩ đại Ấn Độ và vị lão thành nhất của Thời phục hưng Bengal.Budmaash: một người không tốc, một kẻ xấu (tiếng Tây Tạng).Bukoo: một kiểu áo choàng Tây Tạng (tiếng Hindi-Urdu).Bundobust: một tổ chức tài năng (tiếng Hindi-Urdu).Bundook: một khâu súng trường tiếng Hindi-Urdu).Burra: lớn, quan trọng tiếng Hindi-Urdu).Burra mèm: quý bà quan trọng (tiếng Hindi-Urdu).Cahuli: đến từ Kabul ở Afghanistan (tiếng Hindi-Urdu).Chatter Munzil: những cung điện ở Lucknow được xây dựng cho những bà vợ của một nhà cầm quyền Hồi giáo.Chale cao: đi đi (tiếng Hindi-Urdu).Chao.: đi, chạy đi (tiếng Hindi-Urdu).Chang: một loại bia màu trắng nhạt làm từ lúa mạch lên men (tiếng Tây Tạng).Chaprasi: người đưa tin, người phục vụ cho cho nhà nước, có đeo ~loá ở thắt lưng (tiếng Hindi-Urdu).Chilinpa: người ngoại quốc, người Châu Âu (tiếng Tây Tạng).Chini: ngôi làng điên đồi ở biên giới Kinnaur, giờ là Kalpa.Chintamani: vật quý thực hiện được điều ước trong các truyền ~hu~ết của Phật giáo (tiếng Phạn).Chokra: thằng nhai, thằng nhóc lè đường (tiếng Hindi-Urdu).Chota-hazri: bữa trà sáng sớm (tiếng Anh lai ấn).Churail: ma, linh hồn một người đàn bà đã chết khi sinh con (tiếng Tây Tạng). "C I E: danh hiệu trung tá của đế quốc Ấn Độ thuộc Anh.Collector: người quần lý chính của một hạt, ban đầu là người thu thuế.Dacoit: tên cướp (tiếng ~nh-ân).Da dao: thanh gươm lưới to bấn của đao phu.Dak bungalow: toà nhà cho khách ở của chính phủ (tiếng Anh-Án).Daal:,đậu lăng (tiếng Hinsu).Dam cha: gà nước (tiếng Tây Tạng).Dayig: công văn nhà nước, theo nghĩa đen là mũi tên công vụ (tiếng Tây Tạng).Dawat: tiệc mừng (tiếng Hindi-Urdu).De kho: nhìn kìa (tiếng Hindi-Urdu).Dekchis: nồi nấu ăn (tiếng Hindi-Urdu).Deodar: thuộc loài tuyết tùng mọc nhiều ở phía tây Himalaya.Dharma: Pháp, một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật có nhiều nghĩa trong đó nghĩa quan trọng nhất là quý luật bao trùm toàn thêm vú trụ, nhất là quy luật tái sinh dưới tác động của nghiệp. Đức Phật là người đã giác ngộ được quy luật nói trên và giáo hoá giác ngộ cho chúng sinh (tiếng Phạn).Dhoti: chiếc khố lỏng được những người theo Ấn Độ giáo mặc (tiếng Hindi-Urdu).Dorjee: ban đầu là vũ khí sấm sét của Indra, về sau được đồng hoá vào ký hiệu của Phật giáo như là "lvajral" (tiếng Phạn), quyền trượng kim cương (tiếng Tây Tạng).Double dorjee: "quyền trượng kim cương" chữ thập, ký hiệu về tính bất biến của đạo Phật.Drilbu: chuông (ciếng Tây Tạng).Dllck~ trang phục được dẹt bằng sợi hong dày tiếng Anh ~11~.Eblis: cương cự quý sa tăng của Hồi giáo tiếng ~A rập).Ecca ghari: loại xe ngựa nhỏ, dùng để chơ khích, có 2 bánh (tiếng Hindi-Urdu)."adha: con lừa (tiếng Tây Tạng)."aruda: phượng hoàng hay chim khổng lồ, loài chim đầy sức mạnh trong huyền choại Phật giáo ~à Ấn Độ giáo tiếng Phạn thau: chiếc hộp ma thuật (tiếng Tây Tạng)."reay ~ame: 5ự đấu tranh và hoạt động gián điệp của ~nh-nga ở biên giới phía Bắc Ấn Độ.Hai-mai: ~hố lân ~ôi chưa", tiếng khóc ru~ẹt vọng (Tiếng Hindi-Urdu).Ha kim: bác si (tiếng Hindi~rdu).Havildal~ trung sĩ (tiếng Hindi-Urdu).Ha~dil]i: bùa hộ mạng (tiếng Hindi-Urdu).Hill ~a~ion: khll vực nằm cách mặt biển trên 1500 mét nơi mà chính pht~l chuyên đến lúc thời tiết nóng (tiếng ~nh~n)."ookah; óng nt~ớc phương Đông tiếng Hindi~rau).Howdah: chỗ ngồi có ~om che trên lưng voi tiếng Hindi~urdu).Huthok~u: dòng dõi Lạt Ma cao cáp (tiếng Mông Cô".Ihar aao: đến đây (tiếng Hindi-Urdu).In~er: toa đệm, một trong nhiều toa trên những chuyến tàu lửa ~Ấn Độ thời xưa. Giữa toa thứ ba và thứ hai (tiếng Anh~ấn). lzzat: vinh dự (tiếng Hindi-Urdu)."adoo: ma thuật (tiếng Hindi-Urdu)."aldi: nhanh lên (tiếng Hindi-Urdu)."amun: một loại cay của Ấn Độ và châu á~ y~ygium cu~zi~zi; có quả màu đỏ tía có thể ăn được (tiếng Hindi-Urdu).Jehannum: địa ngục (tiếng Hindi-Urdu)."hampanees: xe kéo ở Simla (Pahari)."hula: cầu treo thô (tiếng Tây Tạng)."i: một hậu tố biểu thị sự tôn trọng v61 người được nói đến (tiếng Hindi-Urdu)."ingals: loại súng hoả mai nặng được đặt trên chan đứng cần hai người sử dụng (tiếng Anh~n).Kabari: cửa hàng bán đò cũ (tiếng Tây Tạng).Kacha: tạm thời (tiếng Hindi-Urdu).Ka li: nữ thần Ấn Độ giáo khát máu, được thờ phụng ở nhiều vừng thuộc Bengal.Kalka: một thị trấn nhỏ ở chân dãy Himalaya, trên đường ~ừ ~mbala đến Simla.Kankar: cay đoan."arma (nghiệp): niềm tin của Phật giáoẤn Độ giáo, cho rằng mỗi hành động đều kéo theo những hậu quả không thể tránh được, dù tọt hay xấu, trong cả đời này và kiếp sau.Kashag: bộ trưởng Tây Tạng.Kashgar: chành phố lớn ở Đông ~urkestan.Kachiawar: bán đảo ở vùng biển Tây Bắc Ấn Độ.Kayeth: người viết thuê ở chợ, hay (tiếng Hindi-Urdu).Kesar of Oros: Nga hoàng."habardar: diễn tả sự khiển trách (tiếng Hindi-Urdu)."haflla: hành hương (tiếng A rập).Khanda: một loại kiếm (tiếng Pashto).Khatag: những chiếc khăn quàng cố bằng lục hay sợi màu trắng đắt tiền được người Tây Tạng dùng như một dấu hiệu chào mừng hay bày cỏ sự kính trọng (tiếng Tây Tạng).Khuya: loại bánh quy cứng của người Ladakh.Kismet: số phận (tiếng Hindi-Urdu)."otgarh: cơ sở truyền giáo của dạo Cơ đốc nằm phía Đông Bắc Simla.Kuan-yin ~uan ~m) : tên của Bồ Tát tại Trung quốc và các nước lân cận, tại các nước này ~uan âm thường được diễn ta dưới dạng nữ nhân, là vị Bồ Tát tượng trưng cho tình chương vô lượng đối với chúng sinh.Kệch nahin: không gì cả (tiếng Hindi-Urdu).Kunjiri: tâng lớp bán rau quả (tiếng Hindi-Urdu).Kusho: ngài, hay ngài đáng kính (tiếng Tây Tạng)."uttar: dao găm (tiếng Pashto).Kya: gì vậy (tiếng Hindi-Urdu).Hay hai: cái gì thết (tiếng Hindi-Urdu).La: ngọn đèo (tiếng Tây Tạng).Lanh: trăm ngàn (tiếng Hindi-Urdu).Lathi: gậy trẻ (tiếng Hindi-Urdu).Leh: thủ phủ xứ Ladakh và là trung tâm thương mại sâm uất, trước đây nằm giữa Tây Tạng, Kashmir và Trung á.Iha: thần (tiếng Tây Tạng).Iha gyalo: Chiến thắng cho các vị thần? (tiếng Tây Tạng).Lin gam: biểu tượng về dương vật (tiếng Phạn).Lopchap: nhiệm vụ triều cống hàng năm của vua Ladakh đối với Đạt Lai Lạt Ma (tiếng Tây Tạng).Mahasiddha: một người có Tăng lực tâm linh cao (tiếng Phạn).Mahout: quản tượng (tiếng Hindi-Urdu).Mani lag-khor: bánh xe cảu nguyện (tiếng Tây Tạng).Man tra: câu thần chú (tiếng Phạn).Me la: chợ phiên (tiếng Hindi-Urdu).Mom: bánh bao nhân thịt hấp hơi (tiếng Tây Tạng).Mudra: ấn, động tác trong khi hành lễ của Mật giáo (tiếng Phạn).Murrree: khu an dương trên núi ở Tây Bắc Ấn Độ, nổi tiếng với món bia.Mursala: quốc thư, công văn của nhà nước hiểu theo nghĩa trang trọng (tiếng ta Tư).Mussak: thùng đã đựng nước (tiếng Hindi-Urdu).Namaste: diễn tả sự chào mừng (tiếng Hindi-Urdu).Narkhanda: một thị trấn nhỏ nằm ở Đông Bắc Simla.Nickel Jao: cút đi (tiếng Hindi-Urdu).Nizamut: vụ án (tiếng Hindi-Urdu).Norbu rimpoche: nhìn thấy Chintamani (tiếng Tây Tạng).Nowkri: phục vụ, làm việc (tiếng Hindi-Urdu).Om Mani Padme Hum: (dịch ra âm Hán Việt là Um ma ni bát mê hồng) câu thần chú Phật giáo (man tra), thường được dịch là "Om, Ngọc quý trong hoa sen, hum".Sáu âm của thần chú này được xem là tương ứng với sáu coi tái sinh của dục giới.Oswal ~ain: một nhóm đặc biệt trong cộng dông người theo đạo Jana, nổi tiếng vì sự nhạy bén thương mại của nó.Pan: một miếng lá trầu có tác dụng gây mê nhẹ, nhai cùng với một miếng cau, cùng gia vị và vôi, nhiều người Ấn có thói quen nhai paan vì nó có tác dụng chắc răng và làm môi đỏ.Paan-bidi-wallahs: những người bán thuốc lá và paan dạo (tiếng Hindi-Urdu).Pahari: người vùng cao.P~O: Cong ty hàng hải tàu hơi nước phương đông và bán đao, công ty hàng hai lớn và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực chơ du khách nh đến Ấn Độ và phương Đông.Parao: nơi nghi ngơi bên đường (tiếng Hindi-Urdu).Peshawar: ở lối vào đèo ~jlyber, ~hủ pht~l rinh biên giới Tây Bắc.Phowa: thuật chuyện đi tâm thức của những người theo thuyết đủ già (yoga) từ một hoá thân này đến một hoá thân khác mà không gây ra sự đứt đoạn nào trong dòng tương tục của tâm thức (tiếng Tây Tạng).Phurba: dao găm có ba cạnh thuộc lễ nghi tôn giáo, thường được gọi sai lầm là "dao găm ma quỷ" (tiếng Tây Tạng).Pie: là phần nhỏ nhất của đồng rupi xưa. 1 rupi bằng lý anna, 1 anna hằng 4 pice và 1 pice bằng 3 pie.Poodle-faker: người đàn ông lăng nhăng, đặc biệt là ở các khu an dương trên núi (tiếng Anh~n).Poshtee l: áo choàng dài bằng đã cửu xuất xứ từ Afghanistan.Pukka: một từ thường được dùng với nhiều nghĩa như khoe mạnh, cứng cáp, lực lưỡng, chân thật hay hào phóng (tiếng Hindi-Urdu).Pundit: người có học, thầy giáo (tiếng Hindi-Urdu).Punkak: người hâm mộ (tiếng Hindi-Urdu).Puranas: mười tám bần văn thiêng liêng được viết giữa giai đoạn năm 200 trước công nguyên đến năm 800 sau công nguyên, chứa đựng các thiên anh hùng cả, huyền thoại, tri thức phổ biến... gồm các nguyên tắc chung về tôn giáo và đạo đức của Ấn Độ giáo.Purana trong tiếng Phạn có nghĩa là cổ xưa.Puttoo: vật liệu len dệt bằng tay.P~VVD: Bộ công trình công cộng.Rai Bahadur: một danh hiệu quan trọng được trao tặng bởi pho vương.Ramasi: ngôn ngữ của nhăng kẻ sát nhân.Rampur: thị trấn bên sông Sutlej Đông Bắc Simla, thủ phu của lãnh thổ đồi núi độc lập Bushair.Rukho: dừng lại (tiếng Hindi-Urdu).Saat phải: hội kín Ấn Độ giáo.Sadhu: chày tu khất thực (tiếng Hindi-Urdu).Sai: chú rể.Sakht hurra a~sar: cấp bậc sĩ quan cao cấp trong quân đội (tiếng Hindi-Urdu).Salaam: lời chào, hay tỏ sự tôn trọng (tiếng Hindi-Urdu).Sambhar: loài hươu lớn Ấn Độ.Samsara: với Phật giáo, là quá trình đầu thai vào một sinh vật khác sau khi một người chết đi; với Ấn Độ giáo, là vòng quay bất tận của sinh, tư và tái sinh mà tất cả sinh vật đều phải trải qua.Sang: một chiếc cầu làm bằng không thanh gỗ thô (tiếng Pahari).Sai: phong tục cũ của Ấn Độ giáo quy định phải thiêu sống goá phụ cùng với người chồng vừa chết, một phong tục đã man đã bị Ram Mohan Ro~ lên án và bị chính phủ Anh cho là bất hợp pháp.Seer: đơn vị do lường trọng lượng của Ấn Độ tương dương với O~ kg.Se rai: khu vực tạm nghỉ cho đoàn hành hương, cũng là nơi trú chân cho các du khách (tiếng Hindi-Urdu).Shay ~iêt (Sát) (tiếng Trung Quốc).Shabash: rất tốt, hoan hô (tiếng Hindi-Urdu).Shaitan: ~u~ dư (tiếng Hindi-Urdu).Shamiana: lêu bạt (tiếng Hindi-Urdu).Shikar: săn (tiếng Hindi-Urdu).Sirdar: lanh đạo, cũng là người tổ chức một đoàn hành hương hay thám hiểm (tiếng Hindi-Urdu).Si~ar: đàn luật có nhiều dây của người Ấn.Sivaliks: một rặng đồi thấp ở phía tây dãy Himalaya.Skanda Puranas: một trong mười tám bản văn thiêng liêng của Puranas.Spiti: ở biên giới Tây Tạng. Trong thung lũng của một vùng phụ lưu sông Sutlej San~rasi: ân sĩ.TA: trợ cáp du lịch (tiếng Anh lai ấn).Talwar: gươm (tiếng Hindi-Urdu).Tam Bảo (Three ~e~els): Phật, Pháp và Tăng trong Phật giáo.Tám biểu tượng chiến thắng (Eight Auspicious Emblems): gồm chiếc Lọng, Cặp cá vàng, có ốc xoắn (xoắn về phía bên phải), Nút buộc không bao giờ kết thúc; Lá cờ cối cao, Đại pháp thời luân; Chiếc bình giàu có vĩ đại và Hoa sen.Tantric: Mật giáo (tiếng Phạn).Tasam: đoàn hành hương: khu vực dừng chân (tiếng Tây Tạng).Tạt: ngựa lùn vùng cao.Taar: diện tín.Thanh: sở cảnh sát, nhà tù.Thang ka: cuộn tranh vẽ Tây Tạng.Thugs: một ~ố chức sát nhân (tiếng Hindi-Urdu).Ticca ghari: xe ngựa bốn bánh cho thuê.Tif~m: tiệc trưa (Anh-Án).Tummies: lính trơn người ~nh.Topee: mũ cát, chính xác là nón của người Hindu ~th-ấn).Trichinopogy: xì gà chất lượng cao được làm tại ~orur, một ngôi làng gần Thiruchirapalli ở Nam ~n ~nh-ân).Trong thuật thiền(yoga) nhằm chuyển tâm thức của một người vào cơ thể của một người khác còn sống (Tây Tạng).Trulku: hoá thân của một Lạt Ma (Tây Tạng).Tsampa: lúa mạch rang.Tsongdu: quốc hội Tây Tạng.Tung: tín đồ Hồi giáo người Trung quốc ở ~ansu.Tuticorin: cáng biên ở cực Đông Nam của Madras, có quan hệ buôn bán với Ceylon.Chen: kiểu chữ Tây Tạng.May: chữ thao Tây Tạng.Umballa: theo cách viết cũ là Ambala, thủ phủ của vùng đấyƠ phía Đông Punjab.Upanishads: trong Ấn Độ giáo, bất cứ một loại luận thuyết tự biện nào, thường được viết dưới hình thức đối thoại, được soạn trong khoảng từ giữa thế kỷ 8 đến thế kỷ 6 trước công nguyên và được chép thành văn ban lần đầu tiên vào năm 1300 sau công nguyên (tiếng Phạn).Utpala: Hoa sen xanh (tiếng Phạn).Va~ra: nhìn thấy "dorjee l (tiếng Phạn).Vangala: Bengal (tiếng Phạn)."Vahl: phó từ diễn tả sự kính trọng và thán phục (tiếng Hindi-Urdu). "Trang kur: cho nhập môn (Tây Tạng).Yakdan: hòm gỗ bọc đã (tiếng Turkic).Yamen: nơi ở của vị đại diện Man thanh tại trên một ốc đảo lớn ở Ta rim Ba sin.Yidam: hoá thần, giống như thần hộ pháp (Tây Tạng).Za de mon: quỷ dữ có hình dáng một con bò cạp toàn thân phu đầy mắt (tiếng Tây Tạng).Zoolum: sự đàn áp (tiếng Hind~urdu).
HẾT |
| | | | Sherlock Holmes mất tích - Jamyang Norbu | |
|
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|