Conan Fan Club |
|
| Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer | |
| Tác giả | Thông điệp |
---|
Ever Clifford
Tổng số bài gửi : 664 Birthday : 30/10/1998 Age : 26 Đến từ : Disney land
| Tiêu đề: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer 29/1/2012, 19:15 | |
| Chương 1
Gã vừa mở cửa thì tiếng chuông báo động vang lên.
Đó là thứ sai lầm chỉ có thể tin là của một tay không chuyên nghiệp, vì thế thật đáng ngạc nhiên bởi vì Connor Fitzgerald được các đồng nghiệp đánh giá là chuyên gia của các chuyên gia.
Fitzgerald nghĩ rằng phải mất nhiều phút sau cảnh sát địa phương mới có những phản ứng với một tay trộm đêm ở quận San Victorina.
Vẫn còn hai giờ nữa mới đến giờ bắt đầu trận đấu hàng năm với Brazil nhưng một nửa số TV ở Colombia đã được bật sẵn. Nếu như Fitzgerald đột nhập vào tiệm cầm đồ đó sau khi trận đấu bắt đầu thì có thể phải chờ đến khi trọng tài thổi còi chấm dứt cảnh sát mới bắt đầu động đậy. Ai chẳng biết rằng cơ quan hình sự địa phương dán mắt vào trận đấu trong suốt chín mươi phút tuần tra. Nhưng các kế hoạch của gã cho chín mươi phút đó sẽ khiến cho cảnh sát phải truy đuổi trong nhiều ngày. Và sẽ có thể là hàng tuần, hàng tháng trước khi ai đó tìm ra được những dấu ấn đặc biệt trong cuộc đột nhập vào buổi chiều chủ nhật hôm đó.
Chuông báo động vẫn tiếp tục kêu trong khi Fitzgerald đóng cửa sau và đi nhanh qua căn buồng kho nhỏ để đến gian phía trước cửa hàng. Gã bỏ qua những dãy đồng hồ để trên kệ, những viên đá quý đựng trong túi giấy và những vật màu vàng đủ kích cỡ và hình dạng bày sau một cái lưới rất đẹp. Tất cả đều được dán nhãn cẩn thận, ghi rõ tên và ngày tháng để cho sáu tháng sau các chủ nhân nghèo kiết của chúng quay lại xin chuộc. Có rất ít người trở lại.
Fitzgerald gạt tấm rèm chia đôi gian phòng để ngăn cách gian kho với cửa hiệu và dừng lại trước bàn tính tiền. Mắt gã dừng lại ở một cái vali da được đặt trên bục chính giữa quầy hàng. Trên nắp va li có in mấy chữ viết tắt bằng vàng “D.V.R”. Gã vẫn đứng im phăng phắc, cho đến khi chắc chắn là không có ai nhòm vào.
Sáng hôm nay khi Fitzgerald bán tuyệt tác thủ công đó cho người chủ hiệu gã đã giải thích là gã không có ý định trở lại Bogotá, cho nên cần phải bán ngay. Fitzgerald không ngạc nhiên khi thấy cái va li đã được bày trên cửa sổ. Ở Colombia không hề có cái thứ hai như vậy.
Hắn định trèo qua cửa hàng thì có một thanh niên đi ngang qua cửa sổ. Fitzgerald cứng người nhưng tâm trí của người này hoàn toàn bị hút vào một chiếc radio nhỏ đang áp sát vào tai. Hắn nhìn vào Fitzgerald chẳng khác gì nhìn vào một hình mẫu trong cửa hiệu may đo. Sau khi hắn đi khuất Fitzgerald bèn trèo qua quầy và đi về phía cửa sổ. Gã nhìn ngược nhìn xuôi khắp phố để kiểm tra xem có ai đang nhìn không, nhưng chẳng có ai hết. Chỉ trong một giây gã đã lấy chiếc vali da xuống khỏi giá và bước nhanh về phía sau. Gã nhảy qua quầy và quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa để tin chắc rằng không có con mắt tò mò nào chứng kiến vụ trộm đêm.
Fitzgerald quay phắt lại, kéo tấm rèm sang bên và đi về phía cửa đóng. Gã nhìn đồng hồ. Chuông báo động đã kêu được chín mươi giây. Gã bước ra con đường nhỏ giữa hai nhà và nghe ngóng. Nếu nghe thấy tiếng còi của xe cảnh sát gã sẽ rẽ trái và biến mất vào mê cung những con phố phía sau cửa hiệu cầm đồ. Nhưng ngoài tiếng chuông báo động, tất cả vẫn im ắng. Gã rẽ sang phải và đi một cách bình thường về phía Carrere Septima. Khi Connor Fitzgerald bước lên vỉa hè gã liếc sang trái rồi sang phải, len lỏi qua dòng xe cộ rồi đột nhiên không hề nhìn lại, gã bước sang vỉa hè cuối phố bên kia. Gã mất hút vào một tiệm ăn đông đúc, nơi có một nhóm người hâm mộ cuồng nhiệt đang ngồi quanh một chiếc TV màn ảnh rộng.
Không ai nhìn về phía gã. họ đang thích thú theo dõi hình ảnh chiếu đi chiếu lại của một trong ba quả do Colombia đá vào trong năm qua. Gã ngồi xuống một cái bàn trong góc phòng. Mặc dầu không nhìn thấy màn hình TV rõ lắm nhưng từ đây gã có thể quan sát phía bên kia đường rất rõ. Bên trên cánh cửa của cửa hiệu cầm đồ, một tấm biển đèn đung đưa trong làn gió nhẹ ban chiều, trên có dòng chữ J. Escobar. Monte de Piedad. Xây dựng năm 1946.
Lâu lắm mới thấy một chiếc xe cảnh sát phóng đến và đỗ trước cửa hiệu. Vừa nhìn thấy hai bóng mặc đồng phục cảnh sát, Fitzgerald rời khỏi bàn và hờ hững đi ra cửa sau để đi ra một con phố khác cũng yên tĩnh trong buổi chiều thứ bẩy hôm ấy. Gã vẫy chiếc taxi trống đầu tiên và nói bằng giọng Nam Phi rất nặng: - El Belvedere ở Plaza de Bolívar, por favor.
Người lái xe gật mạnh đầu tựa như muốn nói rõ là anh ta không hề muốn nói chuyện dài dòng làm gì. Fitzgerald vừa ngồi xuống ghế sau anh ta đã bật radio.
Fitzgerald nhìn đồng hồ lần nữa. Một giờ mười bảy phút. Gã bị chậm hơn kế hoạch hai phút. Chắc hẳn bài diễn văn đã bắt đầu, nhưng bao giờ nó cũng sẽ kéo dài bốn mươi phút cho nên gã vẫn còn nhiều thời gian hơn cần thiết để tiến hành những điều thực ra khiến gã có mặt ở Botogá này. Gã hơi ngồi nhích sang bên phải một chút để người lái xe có thể nhìn rõ mặt gã qua gương chiếu hậu. Một khi cảnh sát bắt đầu điều tra thì Fitzgerald cần để bất cứ ai nhìn thấy gã vào ngày hôm ấy có thể mô tả giống nhau: Đàn ông, người Caucasian, khoảng năm mươi tuổi, cao hơn một mét tám, nặng khoảng tám mươi lăm cân, nói giọng nước ngoài nhưng không phải là người Mỹ. Gã hy vọng có ít nhất một người sẽ nhận ra là gã nói giọng mũi kiểu Nam Phi. Fitzgerald bao giờ cũng bắt chước giọng rất giống. Hồi học trường trung học gã thường hay bị rầy rà vì chuyện bắt chước các thầy giáo.
Radio của taxi tiếp tục phát ra các ý kiến của hết chuyên gia này đến chuyên gia khác về khả năng kết quả trận đấu hàng năm này. Tâm trí Fitzgerald đã tự động ngắt khỏi thứ ngôn ngữ mà gã không thích lắm này, mặc dầu gã đã kịp thêm vào vốn từ vựng ít ỏi của mình mấy từ falta, fuera và gol.
Mười bảy phút sau, chiếc Fiat nhỏ đỗ lại bên ngoài El Belvedere. fit đưa cho người lái xe tờ mười ngàn peso và chui ra khỏi xe trước khi người lái xe kịp cảm ơn vì món tiền thưởng hậu hĩnh. Không phải vì các lái xe ở Botogá vốn nổi tiếng về sự lạm dụng từ muchas gracias.
Fitzgerald chạy lên bậc thềm khách sạn, đi qua những người giữ cửa mặc chế phục và cánh cửa quay. Vào đến tiền sảnh gã đi thẳng về phía dãy buồng thang máy đối diện với bàn làm thủ tục. gã chỉ phải đợi vài phút, một trong bốn chiếc thang máy đã quay xuống tầng trệt. Cửa mở ra, gã bước vào và ấn ngay nút tầng tám rồi ấn nút đóng cửa, không để ai kịp bước vào thêm. Khi cửa mở ra ở tầng tám, Fitzgerald bước đi dọc hành lang trải thảm mỏng để đi về phòng 807. Gã ấn chiếc thẻ nhựa vào khe và chờ cho đèn xanh bật lên rồi mới xoay tay nắm. Cửa vừa mở ra gã đã treo ngay tấm biển Favor de no Molestar ( Không làm phiền ) ra ngoài, đóng cửa rồi chốt lại. Gã nhìn đồng hồ một lần nữa: hai giờ kém hai bốn phút. Lúc này hắn tính toán rằng cảnh sát đã rời khỏi cửa hiệu cầm đồ với kết luận là chuông báo động sai. Bọn họ sẽ gọi điện cho ngài Escobar ở nhà riêng ở ngoại ô để thông báo rằng mọi việc có vẻ ổn cả và đề nghị rằng nếu có bị mất vật gì sáng thứ hai ông ta sẽ đến gặp và cho họ biết. Nhưng trước đó rất lâu thì Fitzgerald đã kịp trả chiếc vali da về chỗ cũ. Sáng thứ hai Escobar sẽ chỉ báo là mất nhiều gói kim cương chưa cắt - chính cảnh sát đã lấy đi trước khi ra về. Phải bao lâu nữa người ta mới phát hiện ra một vật nữa cũng bị mất? Một ngày? Một tuần? Hay một tháng? Fitzgerald đã quyết định để lại một dấu vết đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ.
Fitzgerald cởi áo khoác treo lên lưng chiếc ghế gần nhất rồi cầm chiếc điều khiển từ xa để trên bàn đầu giường rồi gã bấm nút On và ngồi xuống chiếc ghế sofa đối diện với TV. Khuôn mặt của Ricardo Guzman choán hết màn ảnh TV.
Fitzgerald biết rằng tháng Tư tới Guzman sẽ tròn năm mươi tuổi, nhưng với chiều cao một mét tám ba, mái tóc còn đen nhánh và không hề béo phị, ông ta hoàn toàn có thể nói với đám đông ngưỡng mộ là chưa đến bốn mươi, và họ sẽ tin. Rốt cuộc, chẳng mấy người Columbia mong chờ các chính sách của họ nói thật về bất cứ điều gì, đặc biệt là về tuổi tác của họ.
Ricardo Guzman, người được ưa thích nhất trong cuộc bầu cử tổng thống sắp đến là chủ tịch của cartel Cali, cái công ty kiểm soát hơn tám mươi phần trăm việc buôn bán cocain ở New york và kiếm được hàng tỷ đô la mỗi năm. Thông tin này Fitzgerald không thu thập được từ bất cứ tờ báo lớn ở Columbia, bởi vì hầu hết báo chí ở trong nước đều do Guzman kiểm soát.
- Hành động đầu tiên của tôi sẽ làm sau khi trở thành tổng thống của các bạn là quốc hữu hoá mọi công ty mà Mỹ chiếm cổ phần đa số.
Đám đông vây quanh bậc thềm toà nhà Quốc hội ở Plaza de Bolívar ồ lên tán thành. Các cố vấn của Ricardo Guzman đã nói đi nói lại với ông ta là sẽ phí thời gian đi diễn thuyết trong ngày có trận đá bóng này. Nhưng ông ta bỏ qua lời khuyên đó, bởi vì ông tính rằng hàng triệu người ngồi trước màn hình TV chờ xem trận đấu sẽ mở thử các kênh để tìm kênh bóng đá và sẽ bắt gặp ông ta trên màn ảnh, dù chỉ là một giây. Cũng những người đó sẽ ngạc nhiên khi thấy chỉ một giờ sau ông đã bước ra sân vận động. Guzman chán ngấy bóng đá nhưng biết rõ rằng việc ông ta bước vào sân vận động ngay trước khi đội nhà đến giờ chiếm lĩnh sân bóng sẽ khiến sự chú ý của công chúng sao nhãng khỏi Antonio Herrera, viên Phó tổng thống Columbia và là đối thủ chính của ông ta trong cuộc bầu cử. Herrera sẽ ngồi ở trên hàng ghế dành cho VIP nhưng Guzman sẽ ở giữa đám đông ngồi sau khung thành. Ông ta muốn phô bày hình ảnh một con người của công chúng. Fitzgerald ước tính bài diễn thuyết còn sáu phút nữa. Gã đã nghe Guzman nói hàng chục lần: Giữa hội trường đông đúc, trong quán rượu thưa thớt, trên góc phố, thậm chí ở một chỗ đỗ xe nơi vị ứng cử diễn thuyết với người nghe từ phía sau một chiếc xe buýt. Gã kéo chiếc vali ra khỏi giường và đặt lên bàn.
- … Antonio không phải là một ứng cử viên của đảng Tự do- Guzman rít lên- mà là ứng cử viên của Mỹ. Ông ta chỉ là một thứ bù nhìn lặp đi lặp lại từng lời do một kẻ ngồi trong phòng bầu dục mớm cho.
Đám đông lại hò reo hưởng ứng.
Còn năm phút nữa, Fitzgerald tính. Gã mở chiếc vali và nhìn khẩu Remington 700 mới chỉ rời khỏi tay gã mấy giờ trước đó.
- Làm sao bọn Mỹ dám tưởng rằng chúng ta sẽ làm bất cứ thứ gì khiến chúng cảm thấy tiện lợi? - Guzman gầm lên - Và đơn giản chỉ vì sức mạnh của đồng đô la toàn năng như chúa trời. Quẳng những đồng đô la toàn năng đó xuống địa ngục!
Đám đông reo hò to hơn khi vị ứng cử viên lấy ra một đồng đô la và xé vụn hình George Washinton thành từng mảnh nhỏ. Guzman tung những mảnh giấy màu xanh vào đám đông như rắc confetti và nói tiếp:
-Tôi có thể cam đoan với các bạn một điều…
-Chúa không phải là một người Mỹ… - Fitzgerald thì thầm.
-Chúa không phải là một người Mỹ- Guzman gào lên.
Fitzgerald nhẹ nhang lấy báng súng bằng sợi thuỷ tinh ra khỏi chiếc vali da.
- Hai tuần nữa, các công dân Columbia sẽ có cơ hội để làm cho thế giới biết được quan diểm của mình- Guzman gào lên.
Bốn phút nữa - Fitzgerald lẩm bẩm trong khi nhìn lên màn hình và bắt chước nụ cười của ứng cử viên. Gã lấy chiếc nòng Hart bằng thép không gỉ khỏi chỗ để của nó và lắp chặt vào báng súng. Vừa khít như đi găng tay vậy.
- Mỗi khi có một hội nghị thượng đỉnh nhóm họp trên thế giới, một lần nữa Colombia sẽ ngồi trên bàn hội nghị chứ không phải chỉ đến ngày hôm sau mới được đọc tin tức trên báo. Chỉ trong một năm tôi sẽ khiến cho nước Mỹ đối xử với chúng ta không phải như với một nước trong Thế giới thứ ba, mà như với một nước ngang hàng với họ.
Đám đông gào lên trong khi Fitzgerald nâng chiếc kính ngắm bắn tỉa Leupold 10 khỏi chỗ để của nó và lắp vào hai cái khe nhỏ trên nòng súng.
- Trong vòng một trăm ngày các bạn sẽ được thấy các thay đổi trên đất nước chúng ta, điều mà Herrera không dám tin sẽ nhìn thấy trong một trăm năm. Bởi vì khi tôi trở thành tổng thống của các bạn…
Fitzgerald chậm rãi dặt báng khẩu Remington lên vai. Cảm giác nó như một người bạn cũ. Nhưng bởi thế đấy: Từng bộ phận của khẩu súng đã được gia công tỉ mỉ bằng tay cho vừa với chính gã. Gã nâng kính ngắm chĩa vào hình ảnh trên màn hình và nâng dần cho đến khi nó nhắm vào điểm ở trên trái tim vị ứng cử viên chỉ một insơ. -… chế ngự lạm phát…
Còn ba phút nữa.
-… chế ngự nạn thất nghiệp…
Fitzgerald thở ra.
-…và do đó chế ngự đói nghèo.
Fitzgerald đếm ba… hai… một rồi nhẹ nhang kéo cò. Gã nghe thấy cả tiếng cách nổi lên trên tiếng ồn ào của đám đông.
Fitzgerald hạ cây súng xuống, đứng dậy và bỏ cái vali không xuống. Vẫn còn chín mươi giây nữa mới đến đoạn chỉ trích Tổng thống Lawrence.
Gã lấy một viên đạn từ chiếc túi da khâu dưới lắp vali ra. Gã bẻ gập báng súng và nhét viên đạn vào ổ rồi gập nòng lên bằng một động tác mạnh và dứt khoát.
- Đây sẽ là cơ hội cuối cùng để cho các công dân Columbia có thể sửa chữa những sai lầm trong quá khứ - Guzman kêu lên, giọng ông ta cao dần lên. Vì vậy chúng ta phải chắc chắn một điều là… Một phút - Fitzgerald lẩm bẩm. Gã có thể nhắc lại từng lời của bài diễn thuyết của Guzman trong sáu mươi giây cuối cùng. Gã thôi không nhìn màn hình TV nữa mà quay đi chậm rãi bước về phía cửa sổ.
-… Rằng chúng ta sẽ không để uổng phí có hội bằng vàng này…
Fitzgerald kéo tấm rèm để ngăn cách gian phòng với thế giới bên ngoài sang bên và nhìn qua toà nhà Plaza de Bolívir sang quảng trường phía bên kia, nơi vị ứng cử viên Tổng thông đang đứng trên bậc thềm trên cùng của toà nhà Quốc hội và nhìn xuống đám đông.
Fitzgerald kiên nhẫn chờ đợi. không bao giờ được để lộ mình lâu hơn mức cần thiết.
- Viva la Columbia! - Guzman hét lên. - Viva la Columbia! - Đám đông gào lên đáp lại một cách cuồng nhiệt, mặc dầu nhiều người trong số họ chỉ là những kẻ được trả tiền để kích động đám đông.
- Tôi yêu Columbia - vị ứng cử viên tuyên bố.
Chỉ còn ba mươi giây nữa là bài nói sẽ kết thúc. Fitzgerald gạt bức rèm chi khuôn cửa sổ kiểu Pháp sang bên và đón nhận toàn bộ âm lượng của đám đông cuồng nhiệt nhắc lại từng lời của Guzman.
Vị ứng cử viên hạ giọng như thì thầm:
- Và cho tôi nói rõ một điều: tình yêu đối với đất nước là lí do duy nhất khiến tôi muốn trở thành tổng thống của các bạn.
Một lần nữa Fitzgerald nâng báng khẩu Remington lên vai. Mọi con mắt đổ dồn vào vị ứng cử viên khi ông hùng hồn hô vang Dios guarde a la Columbia ( Chúa sẽ phù hộ cho Columbia ). Tiếng ồn trở lên đinh tai nhức óc khi ông ta đưa cả hai tay lên trời để đáp lại tiếng gào thét hưởng ứng của quần chúng Dios guarde a la Columbia. Hai bàn tay Guzman vẫn tiếp tục giơ lên trên không vẻ đầy chiến thắng thêm mấy giây nữa, hệt như mọi lần diễn thuyến khác. Và bao giờ cũng thế, ông ta đứng tuyệt đối im lặng trong vài giây.
Fitzgerald rê thước ngắm cho đến khi nó nằm chác một insow trên tim vị ứng cử viên và thở ra, bàn tay trái nắm chặt báng súng. “Ba… hai… một”, gã lẩm bẩm và kéo nhẹ cò.
Guzman vẫn còn đang mỉm cười lúc viên đạn hình thoi xé vào ngực ông ta. Một giây sau ông ta khuỵu xuống đất như một con rối bị đứt lò xo, những mảnh xương thịt và da bắn tung toé khắp bốn phía. Hình ảnh cuối cùng của vị ứng cử viên mà Fitzgerald nhìn thấy là ông ta giơ hai tay ra như ôm chặt lấy một kẻ thù vô hình.
Fitzgerald hạ súng, bẻ gập báng và nhanh chóng đóng cửa sổ. Nhiệm vụ của gã đã hoàn thành.
|
| | | Ever Clifford
Tổng số bài gửi : 664 Birthday : 30/10/1998 Age : 26 Đến từ : Disney land
| Tiêu đề: Re: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer 30/1/2012, 14:41 | |
| Chương 2
- Liệu tôi có nên gửi điện chia buồn cho vợ con ông ta không nhỉ?
Thu ký nhà nước đáp:
- Không nên thưa Tổng thống. Tôi nghĩ ngài nên để việc đó cho Trợ lý Bộ trưởng phụ trách các vấn đề châu Mỹ lo. Giờ đây có vẻ rõ ràng là Antonio Herrera sẽ là Tổng thống tiếp theo của Colombia, vì thế đó mới là người mà ngài sẽ giao thiệp.
- Ông sẽ thay tôi đến dự lễ tang chứ? Hay là nên cử Phó Tổng thống đi?
Thư ký Nhà nước đáp:
- Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều không nên di. Ðại sứ của chúng ta ở Bogotá thay mặt ngài là hoàn toàn thích hợp. Và bởi vì lễ tang sẽ cử hành vào cuối tuần này nên hiển nhiên là với việc thông báo trước ngắn nhu vậy thì chúng ta khó có thể bố trí được.
Tổng thống gật đầu. Ông đã quen với cách tiếp cận các vấn đề thực tế của Larry Harrington trong mọi thứ, kể cả cái chết. ông chỉ không hiểu Larry sẽ bố trí mọi việc ra sao nếu đây là chính bản thân ông bị ám sát.
- Ngài Tổng thống, nếu ngài có chút thì gìơ thì có lẽ tôi nên báo cáo tóm tắt cho ngài một chút chi tiết hơn về các chính sách hiện nay của chúng ta ở Columbia. Giới báo chí có thể sẽ đặt câu hỏi về khả năng chúng ta tham dự trong...
Tổng thống định cắt lời Thu ký Nhà nước thì vừa lúc đó có tiếng gõ cửa, Andy Lloyd bước vào.
Chắc hẳn bây giờ là mười một giờ, Lawrence nghĩ. Kể từ khi chỉ định Andy Lloyd làm Tổng Tham mưu trưởng thì ông không cần đến đồng hồ nữa.
Tổng thống nói:
- Larry, lát nữa nhé. Tôi đang chuẩn bị họp báo về vấn đề Chương trình cắt giảm các vũ khí Nguyên tử, Sinh học và Hoá học, và tôi không thể hình dung có bao nhiêu nhà báo sẽ quan tâm đến cái chết của một ứng cử viên tổng thống ở một nước mà chắc là rất ít người Mỹ có thể tìm ra nó trên bản đồ thế giới- cũng phải thừa nhận sự thật đó thôi.
Harrington không nói gì. Ông ta nghi mình không có phận sự phải nói rõ với Tống thống rằng đa số người Mỹ cũng không thể tìm nổi vị trí của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Nhưng một khi Andy Lloyd đã bước vào phòng thì Harrington biết rõ là chỉ có lời tuyên bố nổ ra chiến tranh thế giới lần thứ ba mới được ưu tiên hơn mà thôi. Ông ta gật đầu nhanh với Lloyd và rời khỏi Phòng Bầu dục.
-Tại sao trước kia tôi lại bổ nhiệm ông ta kia chứ?- Lawrence hỏi, mắt vẫn nhìn dán vào cánh cửa đã đóng lại.
- Thua ngài Tổng thống, Larry có khả năng giải thoát cho Texas, vào thời điểm mà cuộc điều tra nội bộ cho thấy đa số người miền Nam cho rằng ngài là một tên ma cô miền Bắc có thể vui lòng chỉ định một gã đồng tính luyến ái vào chức vụ Chủ tịch Bộ Tổng tham mưu.
Lawrence nói: - Tôi có thể làm như vậy, nếu như anh nói rằng đó là người thích hợp cho chức vụ đó.
Một trong những lý do khiến Lawrence mời người bạn học cũ giữ chức Tổng Tham mưu trưởng của Nhà Trắng là sau ba mươi năm giữa họ không có gì là bí mật nữa. Andy gọi thẳng tên sự vật mà không hề che đậy hoặc ác tâm. Phẩm chất đáng quý đó đảm bảo rằng ông ta sẽ không bao giờ hy vọng mình được bầu, do đó không bao giờ là một đối thủ.
Tổng thống lật mở tập tài liệu màu xanh dán nhãn "Ngay lập tức" mà Andy đưa cho ông hồi sáng. Ông đoán rằng Tổng Tham mưu trưởng đã phải thức gần suốt đêm để chuẩn bị nó. Ông bắt đầu lần lượt đọc những câu hỏi mà Andy cho là có nhiều khả năng sẽ bị đặt ra.
Ngài hi vọng sẽ tiệt kiệm được bao nhiêu tiền của người đóng thuế nhờ biện pháp này?
Lawrence ngươcs nhìn lên, nói:
- Tôi cho rằng Bacbara Evans sẽ hỏi câu đầu tiên, như thường lệ. Anh có nghĩ đó sẽ là câu gì không?
Lloyd dáp:
-Thưa ngài không. Nhưng vì bà ta là người đã ủng hộ Chương trình cắt giảm vũ khí từ hồi ngài đánh bại Gore ở vòng New Hampshire cho nên bà ta khó có thể là người phàn nàn khi ngài định tiến hành nó.
- Ðúng vậy. Nhưng như vậy sẽ không cần ngăn bà ta đừng hỏi những câu không có lợi nữa.
Andy gật đầu đồng tình trong khi Tổng thống nhìn sang câu hỏi thứ hai. Có bao nhiêu người Mỹ sẽ mất việc làm vì việc thực hiện chương trình này?
Lawrence ngước lên: - Anh có muốn tôi đặc biệt tránh người nào không?
Lloyd cười đáp: -Cả bọn. Nhưng nếu có thể thì hãy trả lời Phil Ansanch.
-Tại sao lại là Ansanch?
-Ông này ủng hộ chương trình này ở tất cả các bang, và hôm nay ông ta sẽ là một trong những người khách ăn tối của ngài.
Tổng thống mỉm cười gật đầu và tiếp tục đưa ngón tay dò trên danh sách những câu hỏi có khả năng sẽ bị đặt ra. Ông dừng ở câu số bảy. Phải chăng đây là một ví dụ nữa về việc nước Mỹ đã đi lạc đường.
Ông nhìn lên Tổng Tham mưu trưởng:
-Ðôi khi tôi cảm thấy chúng ta vẫn đang sống trong một Phương Tây hoang dã, với cái cách mà một số thành viên Quốc hội phản ứng với chương trình này như vậy.
-Tôi đồng ý vơi ngài như vậy. Nhưng ngài biết đấy, hơn bốn mươi phần trăm dân Mỹ vẫn tin rằng người Nga là mối đe doạ lớn nhất của chúng ta, và gần ba mươi phần trăm tin rằng chúng ta sẽ có chiến tranh vơi Nga trong thời của họ.
Lawrence chửi thề và lùa tay vào mái tóc dày màu muối tiêu trước khi đọc tiếp danh sách câu hỏi, đến câu mười chín ông ta lại dừng lại một lần nữa:
- Tôi sẽ bị hỏi bao nhiêu lâu nữa?
Andy đáp:
-Khi nào ngài còn là Tổng Tư lệnh, tôi đoán vậy.
Tổng thống lầm bầm câu gì đó trong miệng và chuyển sang câu khác.
Ông lại nhìn lên:
-Chắc chắn không có cơ may Victor Zerimski trở thành tổng thống tiếp theo của Nga chứ?
Andy đáp:
-Cũng có thể là không. Nhưng ông ta đã leo lên vị trí thứ ba trong lần điều tra ý kiến dân chúng mới đây và mặc dầu vẫn còn kém xa Thủ tướng Chernopov và Ðại tướng Borodin, nhưng lập trường chống tội phạm của ông ta đã làm vị trí dẫn đầu của họ bị lung lay. Có thể bởi vì hầu hết người Nga tin rằng Chernopov dưaj vào sự ủng hộ tài chính của bọn Mafia Nga.
- Thế còn Ðại tướng thì sao?
-Ông ta đang mất chỗ đứng.
-Tạ ơn chúa là còn hai năm nữa mới đến kì bầu cử lại. Có vẻ như nếu Zerimski có tí khả năng nào trở thành tổng thống tiếp theo của Nga thì Chương trình cắt giảm vũ khí sẽ chẳng được cả hai Viện thông qua đâu. Lloyd gật đầu tán thành trong khi Tổng thống lật tiếp sang trang khác. Ông dừng lại ở câu thứ hai mươi chín.
-Có bao nhiêu đại biểu Quốc hội có các cơ sở sản xuất vũ khí và các căn cứ quân sự trong quận của họ?- Ông nhìn Lloyd và hỏi.
Không cần nhìn đến tập hồ sơ chưa mở, Lloyd dáp:
-Bảy mươi hai thượng nghị sĩ và hai trăm mười một hạ nghị sĩ. Ngài sẽ phải thuyết phục hơn sáu mươi phần trăm trong số đó để đảm bảo đạt được đa số trong hai viện. Và đó là với giả thiết có thể tính cả phiếu của thượng nghị sĩ Bedell.
Tổng thống nói:
-Frank Bedell đã yêu cầu một chương trình cắt giảm vũ khí từ hồi tôi còn học trung học ở Wisconsin. Ông ta không còn cách nào khác là phải ủng hộ chúng ta.
-Có thể ông ta vẫn thích chương trình cắt giảm vũ khí, nhưng ông ta cảm thấy ngài đi chưa đủ xa. Ông ta vừa đề nghị ngài cắt chi phí dành cho quốc phòng tơi năm mươi phần trăm kia mà.
-Ông ta nghĩ chúng ta làm thế nào để cắt được chừng ấy kia chứ? -Bằng cách rút khỏi NATO và để cho các nước Châu Âu tự lo lấy công việc phòng thủ của họ.
Lawrence nói:
- Nhưng như vậy là hoàn toàn không thực tế. Ngay cả những người Mỹ dân chủ cũng sẽ phản đối điều đó.
-Ngài biết điều đó. Tôi cũng biết điều đó, và tôi cho là các thượng nghị sĩ tốt khác cũng biết điều đó. Nhưng cái đó cũng không ngăn cản ông ta xuất hiện trên tất cả các đài truyền hình từ Boston cho đến Los Angeles để tuyên bố rằng việc cắt giảm năm mươi phần trăm chi phí quốc phòng có thể sau một đêm giải quyết được vấn đề? chăm sóc sức khoẻ cho người dân Mỹ và những vấn đề lương hưu.
Lawrence nói:
-Tôi chỉ mong Bedell dành thời gian lo lắng đến vấn đề bảo vệ nhân dân bằng với thời gian lo lắng cho việc chăm sóc sức khỏe mà thôi. Vậy tôi sẽ trả lời ra sao đây?
-Hãy tán dương ông ta thật nhiều về những cố gắng không mệt mỏi và những thành tích đáng kể trong việc bảo vệ quyền lợi của người cao tuổi. Nhưng sau đó tiếp tục chỉ ra rằng một khi ngài còn là Tổng tư lệnh thì Hoa kì sẽ không bao giờ hạ thấp quốc phòng. Ðiều ưu tiên thứ nhất của ngài sẽ luôn luôn đảm bảo rằng dân tộc Mỹ vẫn là dân tộc hùng mạnh nhất trên thế giới, vân vân và vân vân. Như vậy chúng ta sẽ vẫn giữ được lá phiếu của Bedell, và có lẽ giành thêm được cảm tình của một vài người nữa.
Tổng thống nhìn đồng hồ rồi lật sang trang thứ ba. Ông thở ra một hơi thật dài khi đọc đến câu hỏi thứ ba mốt.
Làm thế nào ngài hy vọng có thể thi hành được chương trình này, trong khi phe Dân chủ không chiếm đa số trong cả hai Viện?
- Ok, Andy. Câu này trả lời thế nào đây?
-Ngài hãy giải thích rằng những người Mỹ có quan tâm đang tỏ ra cho các đại diện đã được họ bầu ra rằng chương trình đã bị chậm trễ quá lâu rồi, và đó là cảm giác chung của mọi người.
-Lần trước tôi đã dùng ý đó rồi, Andy. Cho chương trình chống ma tuý, nhớ không?
-Vâng, tôi nhớ, thưa ngài Tổng thống. Và người Mỹ? đã luôn ủng hộ ngài.
Lawrence thở dài một lần nữa rồi nói:
-Ôi, lãnh đạo một đất nước không có bầu cử bốn năm một lần và không bị bọn báo chí săn đuổi hẳn phải là một việc dễ dàng hơn nhiều.
Lloyd đáp:
-Ngay cả người Nga bây giờ cũng phải đương đầu với hiện tượng báo chí rồi.
Lawrence vừa đọc câu hỏi cuối cùng vừa nói:
-Ai có thể tin được rằng chúng ta được chứng kiến điều đó. Tôi cảm thấy một cách trực giác là nếu như Chernopov hứa hẹn với cử tri Nga rằng ông ta sẽ là vị Tổng thống Nga đầu tiên dành chi phí cho chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn chi phí quốc phòng thì ông ta đã phải về vườn rồi.
Lloyd nói:
-Có thể ngài nói đúng. Nhưng ngài cung có thể tin rằng nếu Zerimski được bầu thì ông ta sẽ bắt đầu xây dựng lại các căn cứ nguyên tử trước khi nghĩ đến việc xây các bệnh viện mới.
-Chắc chắn là nhu vậy- Tổng thống nói- Nhưng bởi vì sẽ chẳng có cơ may nào để cho ông ta trúng cử...
Andy Lloyd im lặng. |
| | | Ever Clifford
Tổng số bài gửi : 664 Birthday : 30/10/1998 Age : 26 Đến từ : Disney land
| Tiêu đề: Re: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer 10/2/2012, 21:50 | |
| Chương 3Fitzgerald biết rằng hai mươi phút tiếp theo sẽ quyết định số phận của gã. Gã bước nhanh đến cuối phòng và nhìn vào màn hình TV. Đám đông đang chạy tán loạn khỏi quảng trường. Tiếng ồn ào giờ đây đã biến thành hoảng loạn. Hai trong số các cố vấn của Ricardo Guzman đang cúi xuống những gì còn lại của thân thể ông ta. Fitzgerald tháo băng đạn đã dùng và đặt nó lại vào chỗ cũ trong chiếc vali da. Liệu người chủ cửa hiệu cầm đồ có để ý thấy một trong những viên đạn đã bị dùng mất? Từ phía kia của quảng trường tiếng còi rú không thể lầm lẫn được của cảnh sát nổi lên trong tiếng ồn ào của đám đông đang gào thét. Lần này cảnh sát đáp ứng nhanh hơn nhiều. Fitzgerald rút chiếc kính ngắm ra và đặt lại vào chỗ cũ. Gã tháo nòng súng, đặt vào chỗ của nó, rồi cuối cùng cất nốt báng súng. Gã nhìn màn hình TV lần cuối cùng rồi nhìn cảnh sát ùa vào quảng trường. Gã chộp lấy chiếc vali da, lấy mấy que diêm trong chiếc gạt tàn trên đầu TV mở cửa. Gã nhìn ngược nhìn xuôi khắp dãy hành lang vắng tanh rồi bước nhanh về phía thang máy. Gã bấm cái nút trắng trên tường rất nhiều lần. Trước khi đến cái cửa hàng cầm đồ ấy gã đã mở sẵn chốt cửa dẫn ra lối thoat hiểm, nhưng gã biết rằng nếu không thực hiện được cái kế hoạch rất chặt chẽ của mình thì sẽ có một đội cành sát chờ sẵn dưới chân chiếc thang này. Sẽ chẳng có đâu những chiếc trực thăng kiểu Rambo, những lưỡi dao hoa lên và dành cho gã một lối thoát đầy hào quang trong khi đạn veo véo bên tai, chíu chíu xuyên vào mọi thứ trừ gã. Đây là một thế giới thật. Khi cánh cửa nặng nề của thang máy chậm chạp tách ra, Fitzgerald nhìn thấy một hầu bàn trẻ mặc đồng phục đỏ tay bưng một khay ăn trưa nặng trĩu. Rõ ràng là cậu ta đang phải làm việc quá sức và không được nghỉ buổi chiều để xem trận bóng đá. Cậu bồi bàn không dấu nổi ngạc nhiên khi thấy một ông khách đứng ngoài cửa thang máy vận chuyển vật liệu. “No, senor, perdone, no puede entra,” (không, thưa ngài, xin lỗi, không thể vào được) - cậu ta cố giải thích trong khi Fitzgerald bước vụt qua mặt cậu. Nhưng ông khách đã bấm nút có chữ Planta Baja (tầng dưới) và cánh cửa đã đóng lại trước khi cậu bồi bàn trẻ kịp nói là chiếc thang này sẽ dẫn xuống bếp. Xuống đến tầng trệt Fitzgerald im lặng di chuyển qua những chiếc bàn làm bằng thép không gỉ chất đầy những chai champagne sẽ chỉ được bật khi đội nhà thắng trận. Gã đi đến cuối bếp, lách qua hai cánh cửa ra vào và mất hút ra ngoài không để cho một nhân viên khoác áo choàng trắng nào kịp phản đối. Gã chạy dọc dãy hành lang chỉ được chiếu sáng lờ mờ - đêm qua gã đã tháo gần hết các bóng đèn - và đi về phía cánh cửa nặng nề dẫn ra khu đỗ xe của khách sạn. Gã lấy trong túi áo vét ra một chiếc chìa khoá lớn, đóng cán cửa sau lưng và khoá trái nó lại. Gã đi thẳng tới một chiếc Volkswagen nhỏ màu đen đậu trong góc tối nhất của khu đỗ xe. Gã lấy trong túi quần ra một chiếc chìa khoá thứ hai nhỏ hơn, mở cửa xe và chui vào ngồi sau tay lái, chiếc vali da đặt dưới đệm ghế bên cạnh, rồi mở khoá điện. Động cơ xe lập tức nổ giòn, mặc dù đã ba ngày nay nó không hề được động đến. Gã nhấn ga vài lần rồi đạp sang số một. Fitzgerald không hề vội vã lái chiếc xe đi giữa các dãy xe đỗ san sát và lên dốc để ra phố. Lên đến đỉnh dốc gã dừng lại một lát. Cảnh sát đã ùa vào một chiếc xe đang đậu, nhưng thậm chí chẳng ai nhìn về phía gã. Gã rẽ trái và chậm rãi chạy ra khỏi khu vực Plaza de Bolívar. Rồi gã nghe thấy tiếng còi hú sau lưng. Gã nhìn vào gương chiếu hậu và nhìn thấy hai chiếc xe hộ tống của cảnh sát đang chạy phía sau, đèn hiệu bật hết cỡ. Fitzgerald dạt vào một bên nhường đường cho hai chiếc xe cảnh sát hộ tống chiếc xe cấp cứu chở cái xác bất động của Guzman lướt qua. Gã lại rẽ sang trái để vào một phố ngang và bắt đầu quãng đường dại, ngoắt ngoéo để đến cửa hiệu cầm đồ. Hai mươi tư phút sau gã lái xe vào một cái ngõ cụt và đỗ lại sau một chiếc xe tải. Gã lấy chiếc vali da đặt dưới đệm ghế bên cạnh và để chiếc xe lại đó, cửa vẫn mở. Theo kế hoạch, gã sẽ quay lại trong vòng chưa đầy hai phút. Gã nhanh chóng kiểm tra từ đầu đến cuối cái ngõ cụt. Không hề có một bóng người. Một lần nữa Fitzgerald bước vào toà nhà, chuông báo động lại reo vang. Nhưng lần này gã không lo xe cảnh sát sẽ đổ đến rất nhanh - hầu hết cảnh sát lúc này đang bận bịu tại sân vận động nơi trận đá bóng sẽ bắt đầu trong vòng nửa giờ nữa, hoặc đang bắt bất cứ kẻ nào lảng vảng trong vòng một dặm quanh Plaza de Bolívar. Fitzgerald đóng cánh cửa của cửa hiệu cầm đồ lại sau lưng. Lần thứ hai trong ngày hôm nay gã lại di chuyển rất nhanh qua văn phòng nằm phí sau và gạt rèm sang bên để đứng sau quầy hàng. Gã nghe ngóng xem có ai đi ngang qua không rồi mới để chiếc vali da vào chỗ của nó trong tủ kính. Sáng thứ hai tới, khi Escobar trở lại làm việc, liệu ông ta có phát hiện ra rằng viên đạn đuôi thoi thứ sáu đã bị bắn đi và chỉ còn lại vỏ đạn nằm trong bao hay không? Và thậm chí nếu có phát hiện ra điều đó thì ông ta có buồn chuyển thông tin đó cho cảnh sát không kia chứ? Chưa đầy chín mươi giây sau Fitzgerald đã ngồi vào sau tay lái chiếc Volkswagen. Trong khi lái chiếc xe chạy ra phố chính gãvẫn nghe thấy tiếng chuông báo động kêu rền rĩ. Gã cho xe chạy theo biển chỉ đường để ra sân bay Aeropuerto El Dorada. Không hề có người nào chú ý đến gã. Dù sao đi nữa thì trận đấu cũng sắp sửa bắt đầu. Và trong bất cứ trường hợp nào giữa việc chuông báo động réo trong một cửa hiệu cầm đồ ở quận San Victoria với vụ ám sát ứng cử viên Tổng thống ở Plaza de Bolívar kia chứ? Khi Fitzgerald ra đến đường cao tốc gã bèn chạy ở làn giữa và không hề có lần nào vượt quá tốc độ quy định. Rất nhiều xe cảnh sát lao vụt qua mặt gã và chạy về phía thành phố. Dẫu cho nếu có ai đó chặn gã lại để kiểm tra giấy tờ thì họ sẽ thấy là mọi thứ đều đâu vào đó cả. Trong chiếc vali đặt ở ghế sau họ sẽ chẳng tìm thấy gì ngoài những đồ vật của một thương gia đang đến Columbia để bán các thiết bị mỏ. Tới đường rẽ vào sân bay Fitzgerald rẽ khỏi đường cao tốc. Sau khoảng một phần tư dặm bất thình lình gã rẽ phải và lái xe vào bãi đỗ của Khách sạn San Sebastian. Gã mở ngăn đựng găng tay và lấy ra một tấm hộ chiếu đã đóng dấu chi chít. Bằng hộp diêm lấy ở El Belvedere, gã châm lửa vào tấm hộ chiếu của Dirk van Rensberg. Chờ tới khi tay gần bị bỏng gã mới mở cửa xe, thả tấm hộ chiếu cháy dở xuống đất và dập lửa, cẩn thận sao cho người ta vẫn có thể nhận ra dấu chữ thập của Nam Phi. Gã bỏ bao diêm trên ghế cạnh tay lái, cầm lấy chiếc vali để ở ghế sau và đóng sập cửa xe, chìa khoá điện vẫn cắm trong ổ. Gã bước về phía cửa trước của khách sạn và bỏ mẩu căn cước còn lại của Dirk van Rensberg cùng với chiếc chìa khoá to tướng vào thùng rác ở chân cầu thang. Fitzgerald đi sau một nhóm thương gia Nhật bản để qua chiếc cửa quay, gã vẫn tiếp tục đi trong tốp người này để lên thang máy. Gã là người duy nhất đi ra ở tầng ba. Gã đi thẳng đến phòng 347, ở đây gã lấy ra một tấm thẻ nhựa khác để mở một căn phòng, đặt dưới một cái tên khác. Gã quẳng vali lên giường và nhìn đồng hồ. Còn một giờ mười bảy phút nữa mới đến giờ cất cánh. gã cởi áo vét và vứt lên chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng, sau đó mở vali và lấy ra một chiếc túi đựng đồ giặt rồi biến vào buồng tắm. Một lúc sau nước mới đủ ấm, hắn giật nút bồn tắm. Trong khi chờ đợi hắn cắt móng tay và cẩn thận giũa lại, hệt như một phẫu thuật viên chuẩn bị vào mổ. Fitzgerald mất gần hai mươi phút để cạo sạch bộ râu rậm rì đã một tuần không cạo, và chà xát không biết bao nhiêu xà phòng dưới vòi nước nóng, gã mới gội được sạch để mái tóc trở lại cái màu bình thường vốn có của nó là màu vàng cát. Fitzgerald cố gắng lau khô người bằng chiếc khăn mỏng dính duy nhất mà khách sạn cung cấp rồi quay vào phòng ngủ và mặc một chiếc quần soóc vào. Gã đi tới chiếc tủ đựng quần áo kê ở cuối phòng, kéo chiếc ngăn kéo thứ ba và lúi húi cho đến khi tìm thấy cái gói đã được buộc và ngăn kéo phía trên. Mặc dầu đã nhiều ngày nay không về phòng này nhưng gã rất tin rằng không ai tìm được chỗ gã đã dấu nó. Fitzgerald xé chiếc phong bì màu nâu và nhanh nhẹn kiểm tra các thứ bên trong. Một tấm hộ chiếu khác cho một cái tên khác. Năm trăm đô la tiền mặt và một vé hạng nhất đi Cape town. Những kẻ ám sát đang chạy trốn sẽ chẳng bao giờ đi bằng vé hạng nhất. Năm phút sau gã rời khỏi phòng 347, quần áo cũ quăng tung toé khắp sàn nhà và treo tấm biển Favor de no Molestar ngoài cửa. Fitzgerald đi thang máy xuống tầng trệt, tin chắc là chẳng ai buồn chú ý đến một người đàn ông năm mươi mốt tuổi, mặc áo sơ mi vải bông thô màu xanh lơ, cà vạt kẻ sọc, áo vét thể thao và quần len màu xám. Gã bước ra khỏi buồng thang máy và đi về phía tiền sảnh, không hề tỏ ra có ý định trả phòng. Tám ngày trước đây khi đến gã đã trả tiền phòng trước bằng tiền mặt. Gã không hề đụng đến quầy rượu nhỏ trong phòng và không bao giờ rung chuông gọi phục vụ, hoặc gọi điện ra ngoài hoặc yêu cầu được thuê một bộ phim nào. Không hề có một tài khoản trội nào trong tài khoản vãng lai của gã. Gã chỉ phải chờ có mấy phút thì chiếc xe buýt kín mít đã xịch đến. Gã nhìn đồng hồ. Còn bốn mươi ba phút nữa thì đến giờ cất cánh. Gã chẳng hề mảy may lo lắng chuyện nhỡ chuyến bay Aeropueto Flight đi Lima. Gã cảm thấy ngày hôm nay tất cả mọi chuyện sẽ diễn ra rất bình thường. Đến sân bay gã xuống xe buýt và chậm rãi đi về phía bàn làm thủ tục, ở đó gã không ngạc nhiên khi thấy bàn làm thủ tục cho chuyến bay đi Lima đã bắt đầu làm việc được hơn một giờ rồi. Rất nhiều cảnh sát trong phòng chờ đông đúc nhốn nháo đang nghi ngờ theo dõi mọi hành khách, và mặc dầu gã bị chặn lại và hỏi rất nhiều lần, bị khám vali hai lần ngưng cuối cùng gã cũng được phép đi ra cửa 47. Gã đi chậm lại khi nhìn thấy có hai người đeo balô đang bị các nhân viên an ninh kéo ra khỏi sân bay. Gã lười biếng tự hỏi không biết có bao nhiêu người đàn ông Caucasian vô tội chỉ vì lười cạo râu sẽ bị nhốt và hỏi cung suốt bởi những hành vi hồi chiều của gã. Khi Fitzgerald đứng xếp hàng để tới bàn kiểm tra hộ chiếu, gã nhẩm đi nhẩm lại tên họ mới của mình. Đó là cái tên thứ ba gã sử dụng trong ngày hôm đó. Viên sĩ quan mặc đồng phục màu nước biển đứng sau chiếc bàn nhỏ lật tấm hộ chiếu New Zealand và xem xét rất kỹ tấm ảnh dán trong đó, rõ ràng là giống hệt người đàn ông ăn mặc lịch sự đang đứng trước mặt mình. Anh ta đưa trả lại hộ chiếu và cho phép Alistair Douglas, kỹ sư xây dựng người Christchurch đi ra khu cách ly. Sau một thời gian chậm trễ nữa, cuối cùng người ta cũng gọi đến chuyến bay của gã. Một tiếp viên hàng không hướng dẫn ngài Douglas ngồi vào ghế của mình ở khoang hạng nhất. -Thưa ngài, ngài có dùng một li champange không ạ? Fitzgerald lắc đầu: -Cám ơn cô. Có lẽ cho tôi xin một cốc nước suối thì hơn - gã đáp, nhấn rõ giọng New Zealand của mình. Gã thắt dây an toàn, ngồi dựa vào phía sau và giả vờ đọc các cuốn tạp chí được cung cấp trong chuyến bay trong khi chiếc máy bay chậm chạp chạy trên đường băng. Do có nhiều máy bay chờ cất cánh còn xếp hàng phía trước nên Fitzgerald có đủ thì giờ chọn món ăn và một bộ phim trước khi chiếc 727 bắt đầu tăng tốc độ để chuẩn bị cất cánh. Cuối cùng khi các bánh xe tách khỏi mặt đất, lần đầu tiên trong ngày Fitzgerald mới cảm thấy thư thái. Khi chiếc máy bay đã đạt độ cao chóng mặt, gã bắt đầu bỏ mấy quyển tạp chí sang bên cạnh, nhắm mắt và nghĩ đến những việc cần làm khi đáp xuống Cape Town. Một giọng nghiêm nghị cất lên: -Đây là cơ trưởng chuyến bay của các vị. Tôi có một thông báo cần chuyển đến các quý vị có thê khiến các quý vị cảm thấy phiền lòng - Fitzgerald ngồi thẳng dậy. Đây là một tình huống mà gã chưa hề tính đến : phải trở lại Botogá. -Tôi rất đau buồn thông báo với các quý vị về một bi kịch có tầm cỡ quốc gia đã xảy ra ở Columbia hôm nay. Fitzgerald hơi nắm chặt hai tay ghế và cố thở thật bình thường. Viên cơ trưởng ngần ngừ hồi lâu, cuối cùng ông ta nói vẻ rất đau buồn: -Thưa các bạn, Columbia đã phải chịu một tổn thất kinh khủng - ông ta ngừng lại một chút - Đội tuyển quốc gia của chúng ta đã thua Brazil với tỉ số hai một. Những tiếng rên rỉ lan ra khắp cabin, tựa như dù có bị một cú đâm vào ngọn núi gần nhất còn hơn. Fitzgerald mỉm cười. Cô tiếp viên hàng không lại đến bên gã: -Ngài Douglas, lúc này chúng ta đã trên đường bay, tôi có thể mang cho ngài chút gì uống không ạ? Fitzgerald đáp: -Cám ơn. Tôi nghĩ cuối cùng cũng nên uống một ly champange. ______________ - Trích dẫn :
- -Tôi rất đau buồn thông báo với các quý vị về một bi kịch có tầm cỡ quốc gia đã xảy ra ở Columbia hôm nay.
Fitzgerald hơi nắm chặt hai tay ghế và cố thở thật bình thường.
Viên cơ trưởng ngần ngừ hồi lâu, cuối cùng ông ta nói vẻ rất đau buồn:
-Thưa các bạn, Columbia đã phải chịu một tổn thất kinh khủng - ông ta ngừng lại một chút - Đội tuyển quốc gia của chúng ta đã thua Brazil với tỉ số hai một.
Những tiếng rên rỉ lan ra khắp cabin, tựa như dù có bị một cú đâm vào ngọn núi gần nhất còn hơn. Fitzgerald mỉm cười. đọc đên sđoạn này em cười đau cả bụng |
| | | Ever Clifford
Tổng số bài gửi : 664 Birthday : 30/10/1998 Age : 26 Đến từ : Disney land
| Tiêu đề: Re: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer 13/2/2012, 16:14 | |
| Chương 4
Khi Tom Laurence bước vào căn phòng chật cứng, toàn thể các nhà báo đứng dậy.
-Tổng thống Hoa Kỳ! - Thư ký báo chí tuyên bố, tựa như nói với những người ngoài hành tinh.
Lawrence bước lên bục diễn thuyết và đặt chiếc cặp tại liệu màu xanh của Andy Lloyd lên bàn diễn giả. ông vẫy về phía các nhà báo, một cử chỉ đã trở thành quen thuộc để cho các nhà báo biết họ có thể ngồi xuống.
Tổng thống nói vẻ rất thoải mái: -Tôi rất vui mừng được thôgn báo rằng tôi sẽ chuyển tới Quốc hội Chương trình mà tôi đã hứa hẹn với nhân dân Mỹ trong thời gian vận động tranh cử.
Chỉ có một vài nhà báo kỳ cựu chuyên viết về Nhà Trắng ngồi trước mặt ông lúi húi ghi chép, bởi vì hầu hết bọn họ đều biết rằng nếu có gì đáng đưa lên mặt báo thì sẽ là lúc trả lời các câu hỏi chứ không phải những lời mào đầu. Trong bất cứ trường hợp nào thì lời mở đầu của Tổng thống sẽ đựơc chuyển đến cho họ trướckhi họ rời khỏi phòng họp báo. Các báo sẽ chỉ trở lại bài mở đầu của Tổng thống trong trường hợp họ cần bổ sung thêm vài centimet cho một cộ báo nào đó.
Nhưng điều đó không ngăn được Tổng thống nhắc họ nhớ rằng việc thực hiện Chương trình Cắt giảm Vũ khĩ sẽ cho phép ông có thêm ngân sách dành cho chương trình chăm sóc sức khỏe lâu dài, như vậy những người Mỹ cao tuổi có thể ky vọng có được điều kiện sống tốt hơn trong những năm nghỉ hưu.
-Chương trình này sẽ được mọi công dân ở đủ các giới chào đón, và tôi rất tự hào được là Tổng thống đã trình bày nó ở Quốc hội - Lawrence nhìn lên và mỉm cười đầy hy vọng, ông cảm thấy yên tâm rằng ít nhất bài mở đầu cũng trôi chảy.
Những tiếng kêu “Ngài Tổng thống” vang lên từ bốn phía căn phòng trong khi Lawrence mở chiếc cặp tài liệu màu xanh lơ và liếc xuống ba mươi mốt câu hỏi có thể được đặt ra. Ông ngước lên và mỉm cười với một khuôn mặt quen thuộc ngồi hàng đầu.
-Bacbara! - Ông nói và chỉ vào nhà báo kỳ cựu của UPI, người với tư cách là nhà báo cao tuổi nhất trong cuộc họp báo sẽ có quyền hỏi câu đâu tiên.
Bacbara Evens chậm rãi đứng lên. -Thưa ngài Tổng thống, tôi xin cảm ơn. - Bà ta dừng lại một lúc rồi nói tiếp - Ngài có khẳng định là CIA không dính líu tới vụ ám sát ứng cử viên Tổng thống Columbia, ông Ricardo Guzman, ở Botogá hôm thứ bảy vừa rồi không?
Những tiếng rì rầm thích thú loang khắp phòng. Lawrence nhìn xuống ba mươi mốt câu trả lời đã chuẩn bị, ước gì ông đã không gạt đi không cho Larry Harrington trình bày kỹ hơn về vụ việc.
Ông đáp, không bị lỡ một đòn: -Tôi rất mừng vì bà đã hỏi câu này, Bacbara. Bởi vì tôi muốn bà biết rằng một khi tôi còn là Tổng thống thì một chuyện như vậy là không thể xảy ra. Bởi vì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào chính quyền của chúgn ta cũng sẽ không can thiệp vào quá trình dân chủ của một nước có chủ quyền. Thực tế là mới sáng nay tôi đã yêu cầu Thư ký Nhà nước gọi điện cho vợ goá của ngài Guzman để chuyển lời chia buồn của cá nhân tôi.
Lawrence thấy mừng là Bacbara đã nhắc đến tên người bị ám sát, bởi vì nếu không thì ông sẽ không thể nào nhớ ra nổi.
-Bacbara, cũng có thể bà sẽ hài lòng khi biết rằng tôi đã yêu cầu phó Tổng thống thay mặt tôi đến dự lễ tang mà tôi biểt rằng sẽ được cử hành vào cuối tuần này ở Botogá.
Pete Dowd, một nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật phụ trách Ban bảo vệ Tổng thống vội chạy ngay đi tìm Phó Tổng thống để báo cho ông ta biết việc đó, trước khi báo chí mò đến ông ta.
Bacbara Evens có vẻ không tin, nhưng trước khi bà ta kịp hỏi tiếp câu thứ hai thì Tổng thống đã quay sang chú ý tới một người đàn ông đứng ở hàng sau cùng mà ông hy vọng sẽ là người không quan tâm đến cuộc bầu cử ở Columbia. Nhưng khi anh ta vừa đưa ra câu hỏi thì Lawrence lại ước gì anh ta quan tâm đến Colombia thì hơn:
-Nếu như Victor Zerimski có khả năng trở thành Tổng thống tiếp theo của Nga thì Chương trình Cắt giảm vũ khí sắp được đưa ra sẽ có những thay đổi gì?
Trong bốn mươi phút tiếp theo Lawrence phải trả lời rất nhiều câu hỏi về Chương trình cắt giảm vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hoá học và Xuyên lục địa. nhưng đây đó vẫn rải rác có những câu hỏi quan tâm đến vai trò hiện nay của CIA ở Nam Mỹ, và ông sẽ giải quyết ra sao với Victor Zerimski nếu như ông này trở thành Tổng thống tiếp theo của Nga. Và bởi vì điều khá rõ ràng là Lawrence chẳng biết gì một cách chi tiết hơn họ về cả hai vấn đề trên nên họ chuyển sang truy đuổi ông về những vấn đề khác, kể cả về Chương trình Cắt giảm vũ khí.
Cuối cùng khi Lawrence nhận được câu hỏi khá thông minh của Phil Ansanch về đề tài Chương trình cắt giảm, ông trả lời rất dài, rất logic vàbất ngờ không hề báo trước kết thúc cuộc họp báo bằng một nụ cười và nói: -Thưa các quý ông quý bà, tôi xin cám ơn. Đây là một cuộc họp rất vui vẻ như mọi khi.
Không nói một lời nào nữa ông quay lại, nhanh chóng rời khỏi căn phòng và đi thẳng về phía Phòng Bầu dục.
Lúc Andy Lloyd đuổi kịp ông, Tổng thống càu nhàu: -Tôi phải nói chuyện với Larry Harrington ngay lập tức. Bao giờ ông thấy ông ta đi xuống thì gọi cho Langley. Tôi muốn trong vòng một giờ nữa Giám đốc CIA có mặt trong phòng tôi.
Tổng tham mưu trưởng nói: -Thưa Tổng thống, tôi nghĩ có lẽ khôn ngoan hơn chúng ta nên…
-Andy, trong vòng một giờ đấy- Tổng thống nói, thậm chí không buồn nhìn sang ông ta- Nếu tôi phát hiện ra CIA có dính líu chút nào tới vụ ám sát ở Columbia đó thì tôi sẽ phơi sống Dester ngay.
-Tôi sẽ yêu cầu Thư ký Nhà nước đến gặp ngài ngay, thưa Tổng thống
- Lloyd đáp và biến mất vào một văn phòng ở bên cạnh, nhấc chiếc máy điện thoại ở gần nhất và quay số của Larry Harrington ở văn phòng Nhà nước. Ngay cả qua điện thoại, giọng của tay người Texas đó cũng không giấu nổi vui mừng vì đã chứng tỏ được là mình có lý.
Sau khi Lloyd đặt ống nghe xuống, ông quay về văn phòng riêng của mình, đóng cửa lại và ngồi im lặng trước bàn hồi lâu. Sau khi đã nghĩ cẩn thận cần phải nói những gì, ông quay một số điện thoại mà người nghe chỉ có thể là người đó. -Giám đốc đây - Helen Dester chỉ nói có thế.
Connor Fitzgerald đưa hộ chiếu cho viên sĩ quan Hải quan Autralia. Thật nực cười nếu như tấm hộ chiếu này có gì đáng nghi ngờ, bởi vì suốt ba tuần nay đây là lần đầu tiên gã sử dụng tên họ thật của mình. Viên sĩ quan mặc đồng phục gõ các chi tiết lên bàn phím, nhìn lên màn hình rồi ấn thêm mấy cái nút nữa.
Không thấy có gì hiện lên, anh ta bèn đóng dấu Visa du lịch và nói: -Chúc ngài đi thăm Australia được vui vẻ, thưa ngài Fitzgerald.
Connor cám ơn anh ta và đi về phía phòng chờ để lấy hành lý. Gã ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với băng tải và chờ hành lý của mình xuất hiện. Không bao giờ gã để cho mình là người đầu tiên bước ra khỏi cửa hải quan, ngay cả khi gã chẳng có hành lý nào để chờ.
Hôm trước khi gã hạ cánh xuống Cape Town, Connor được một người bạn cũ và là đồng nghiệp tên là Carl Koeter đón. Carl đã báo cáo tình hình cho gã trong hai giờ, sau đó họ đi ăn trưa với nhau và nói chuyện về việc li hôn của Carl và chuyện Maggie và Tara sẽ ra sao. Chính vì chai Rustenberg Cabernet Sauvignon 1982 thứ hai đã khiến gã suýt lỡ mất chuyến bay đi Sydney. Tại cửa hàng miễn thuế gã vội vã chọn quà cho vợ con sao cho mọi thứ có đóng dấu Làm tại Nam phi thật rõ ràng. Ngay cả hộ chiếu cũng không hề có một dấu vết cho thấy gã đã từ Botogá qua Lima, Buenos Aires để đến Cape Town.
Trong khi ngồi chờ ở khu vực trả hành lý, gã bắt đầu nghĩ về cuộc đời của gã trong hai mươi tám năm qua.
Connor Fitzgerald lớn lên trong một gia đình hiến dâng cho luật pháp và trật tự. Ông nội của gã là Oscar - được đặt theo tên của nhà thơ người Irish đã từ Kilkenny di cư sang Mỹ hồi đầu thế kỉ. Chỉ vài giờ sau khi cập bến lên đảo Ellis Island ông đã đi thẳng tới Chicago để gia nhập lực lượng cảnh sát cùng với người anh họ.
Trong thời gian thực hiện đạo luật cấm rượu, Oscar Fitzgerald nằm trong nhóm cảnh sát ít ỏi biết từ chối những món hối lộ của bọn vô lại. Kết quả là ông không thể nào được lên quá cấp bậc thượng sĩ. Nhưng Oscar lại là cha của năm đứa con trai biết kính Chúa, và chỉ thôi không đẻ thêm nữa khi vị cha xứ địa phương nói với ông rằng Chúa không muốn ban phúc để Mary và ông đẻ con gái. Vợ ông rất vui mừng vì lời khuyên khôn ngoan của cha O’Reilly - nuôi nấng năm thằng con trai vạm vỡ bằng đồng lương thượng sĩ quả là đã vô cùng khó khăn rồi. Nhưng, xin nhắc để các bạn nhớ là nếu như có bao giờ Oscar đưa cho vợ nhiều hơn số tiền lương ông được nhận dù chỉ một xu thôi thì bà cũng tra hỏi thật cặn kẽ là nó ở đâu ra.
Sau khi rời trường trung học, ba trong số năm con trai của Oscar đã gia nhập lực lượng cảnh sát Chicago, và họ đều nhanh chóng được thăng lên những cấp bậc mà cha họ chẳng bao giờ được nhận. Một người khác được nhận Thánh chức, điều làm Mary rất vui lòng. Còn người con út - cha của Connor thì theo học về ngành tội phạm ở De Paul. Sau khi tốt nghiệp ông gia nhập FBI. Năm 1949 ông cưới Katherine O’Keefe, con gái một nhà hàng xóm chỉ cách nhà ông hai nhà, trên phố South Lowe. Họ chỉ có một con trai và đặt tên là Connor. Connor sinh ở bệnh viện Trung ương Chicago vào ngày 8 tháng hai năm 1951 và khi chưa đủ tuổi theo học trường Catholic địa phương cậu bé đã tỏ ra là một cầu thủ bóng đá thiên bẩm. Cha của Connor rất vui mừng khi con trai ông trở thành thủ quân đội bóng trường trung học Mount Carmel, nhưng mẹ cậu vẫn bắt cậu học đến tận khuya để hoàn thành các bài tập ở nhà. Bà liên tục bảo cậu: -Con đâu thể chơi bóng đá suốt đời được.
Sự kết hợp giữa một người cha bao giờ cũng đứng lên mỗi khi có một phụ nữ bước vào phòng và một người mẹ phảng phất có những nét của một vị thánh đã khiến Connor luôn bẽn lẽn mỗi khi có sự hiện diện của nữ giới, mặc dù cậu rất dũng cảm về mặt thể chất. Rất nhiều cô gái ở trường trung học Mount Carmel tỏ ý khá rõ ràng về những tình cảm của họ đối với cậu nhưng cậu vẫn không hề bị mất sự trong trắng, cho đến khi gặp Nancy. Ngay sau khi cậu dẫn đội Mount Carmel đi tới một chiến thắng huy hoàng nữa trong một buổi chiều mùa thu, sau một hàng ghế ở khu vực khán đài không có mái chie Nancy đã ôm lấy cậu quyến rũ khiến cậu mê đắm. Đó sẽ là lần đầu tiên cậu nhìn thấy một phụ nữ để khoả thân, nếu như cô ta chịu cởi hêt quần áo. Khoảng một tháng sau Nancy hỏi cậu có muốn thử hai cô gái cùng một lúc không.
Cậu nói: -Anh chưa bao giờ có được hai cô gái, chứ đừng nói đến chuyện hai cô cùng một lúc.
Nancy tỏ vẻ không ngạc nhiên lắm, nhưng cô ta vẫn tiếp tục. Khi Connor đoạt được học bổng để học ở Notre Dame, cậu không hề nhận một trong vô số những đề nghị đối với tất cả các thành viên trong đội bóng đá. Các bạn trong đội của cậu có vẻ rất tự hào về việc vạch tên các cô gái mà họ đã từng quyến rũ vào sau cánh cửa tủ riêng của mình ở trường. Vào cuối học kỳ thứ nhất Brett Coleman, trung phong của đội vạch được mười bảy cái tên lên cánh cửa tủ. Cậu ta cho Connor biết là “cửa tủ không đủ to để kể tất cả những cuộc tán tỉnh suông”. Cuối năm thứ nhất, trên cánh cửa tủ của cậu vẫn chỉ có một cái tên Nancy. Một buổi tối cậu tò mò thử xem tất cả các cánh cửa tủ, thì phát hiện ra là tên Nancy có trên hầu hết các cánh cửa, thình thoảng lại được đóng ngoặc cùng với tên một cô gái khác. Cả đội có lẽ sẽ dìm cậu xuống địa ngục vì ghi được ít bàn thắng, nếu như cậu không là sinh viên năm thứ nhất giỏi nhất của Notre Dame trong một thập kỉ qua.
Thế nhưng vừa lên năm thứ hai được vài ngày, mọi sự đã thay đổi. Khi Connor đến dự buổi vũ hội hàng tuần của Câu lạc bộ khiêu vũ Ailen thì nàng đang cúi xuống đi giày. Anh không nhìn thấy mặt nàng, nhưng điều đó cũng chẳng thành vấn đề lắm, bởi vì anh không thể rời mắt khỏi đôi chân thon dài. Là một anh hùng bóng đá anh đã quen với việc các cô gái nhìn anh, nhưng giờ đây cô gái mà anh muốn gây ấn tượng lại dường như không nhận thấy sự tồn tại của anh. Và dường như để cho mọi sự còn tồi tệ hơn, khi nàng bước ra sàn nhảy thì hoá ra bạn nhảy của nàng là Declan O’Casey, kẻ vốn không có đối thủ trên sàn nhảy. cả hai ưỡn thẳng lưng một cách kỳ dị và bước những bước nhẹ như bay mà Connor chẳng bao giờ mơ mình có thể bước nổi. Cho đến cuôc buổi khiêu vũ Connor vẫn chưa biết được tên nàng. Tệ hơn nữa nàng và Declan ra về trước khi anh tìm được cách đến làm quen. Tuyệt vọng, anh quyết định đi theo họ đến tận ký túc xá nữ, lúc nào cũng đi cách họ khoảng năm mươi mét và luôn ẩn mình trong bóng tối như cha đã dạy. Anh nhăn mặt khi thấy họ cầm tay nhau và chuyện trò vui vẻ. Về đến Le Mans Hall nàng hôn lên má Declan và biến mất vào bên trong. Anh tự hỏi không hiểu tại sao từ xưa đến nay anh lại không quan tâm đến khiêu vũ nhiêu hơn một chút và bớt tập trung cho bóng đá một ít?
Sau khi Declan đã đi về phía ký túc xá của nam, Connor bắt đầu đi lại vẻ bình thản bên dưới các cửa sổ phòng ngủ nữ, băn khoăn không biết mình có thể làm được gì không. Cuối cùng anh thoáng thấy bóng nàng mặc chiếc áo dài cúi xuống kéo rèm. Anh còn lảng vảng quanh đó hồi lâu nữa mới miễn cưỡng quay vê phòng. Anh ngồi ở cuối giừơng và bắt đầu viết thư cho mẹ, nói với mẹ rằng anh đã nhìn thấy cô gái mà anh muốn cưới làm vợ, mặc dầu thực tế anh vẫn chưa nói với nàng được một câu nào - thậm chí còn chưa biêt tên nàng nữa kia. Trong khi liếm phong bì để dán lại, Connor tự thuyết phục mình rằng đối với nàng, Declan O’Casey chẳng là cái gì khác ngoài một anh bạn nhảy vớ vẩn. Suốt tuần đó Connor cố gắng tìm hiểu về nàng, nhưng anh chỉ biết được đôi điều rất ít ỏi, rẳng nàng tên là Maggie Burke, nàng đã giành được học bổng của trường St.Mary và hiện là sinh viên năm thứ nhất ngành Lịch sử Hội hoạ. Anh nguyền rủa cái thực tế là cả đươid anh chưa bao giờ đặt chân đến phòng tranh nào cả, và việc gần gũi nhất với nghề vẽ mà anh từng làm theo lời yêu cầu của cha là sơn lại cái hàng rào của sân sau nhà anh ở South Lowe Street. Còn Declan thì hoá ra là người đã hẹn hò với Maggie từ hồi nàng còn học năm cuối cùng ở trung học. Anh ta không chỉ được đáng giá là tay khiêu vũ giỏi nhất câu lạc bộ mà còn được coi là sinh viên giỏi toán nhất trường đại học. Một số trường đại học khác đã dành cho anh những học bổng nghiên cứu sinh, thậm chí ngay từ lúc kết quả kì thi cuối cùng còn chưa được công bố. Connor chỉ còn hy vọng là Declan sẽ được bổ nhiệm một chỗ làm hấp dẫn ở càng xa South Beth càng sớm càng tốt. Thứ sáu sau đó Connor là người đầu tiên đến câu lạc bộ khiêu vũ, và khi Maggie từ phòng thay quần áo xuất hiện trong chiếc áo vải bông màu kem và chiếc váy đen, điều khiến anh băn khoăn duy nhất là nên nhìn lên đôi mắt xanh thẳm trước hay nhìn xuống để ngắm đôi chân dài trước. Một lần nữa nàng lại nhảy cùng Declan suốt buổi tối, trong khi đó Connor ngồi xa tít tận một cái ghế dài và cố giả vờ tỏ ra không nhận thấy sự hiện diện của nàng. Sau vòng nhảy cuối cùng cả hai người bọn họ lại biến mất. Một lần nữa Connor lại đi theo họ đến tận Le Mans Hall, nhưng lần này anh nhận thấy nàng không nắm tay Declan. Sau một hồi trò chuyện rất lâu và một cái hôn trên má, Declan mất hút vè phía ký túc xá của nam. Connor ngồi thụp xuống chiếc ghế dài nhìn lên cửa sổ phòng nàng và nhìn chăm chắm lên ban công của phòng ký túc xá nữ. Anh quyết định sẽ đợi đến lúc nàng ra kéo rèm cửa sổ.
Nhưng vào lúc nàng ra kéo rèm thì anh lại đã lơ mơ ngủ mất. Điều đầu tiên anh nhớ lại là vừa tỉnh khỏi một giấc mơ, trong đó anh mơ thấy nàng đứng trứơc mặt mình, mặc áo pijama và một chiếc áo choàng.
Anh choàng tỉnh dậy, trố mắt nhìn nàng không tin rồi nhảy phắt dậy, đưa tay ra: -Xin chào. Tôi là Connor Fitzgerald. -Tôi biết - Nàng vừa đáp vừa bắt tay anh - Tôi là Maggie Burke.
Anh nói: -Tôi biết.
Nàng hỏi: -Anh có ở phòng nào không hay chỉ ở trên chiếc ghế dài đó? Kể từ lúc ấy Connor không bao giờ nhìn đến một người đàn bà nào khác nữa.
Thứ bảy sau đó, lần đầu tiên trong đời Maggie đến sân vận động và nhìn anh chơi bao nhiêu quả kỳ diệu ở trước khán đài mà với anh chỉ có một người duy nhất đang ngồi.
Thứ sáu tiếp theo nàng và Connor nhảy bên nhau suốt buổi tối, trong khi Declan ngồi lãnh đạm ở tận cuối phòng. Trông cậu ra còn chán nản hơn khi hai người bọn họ cùng nhau ra về, tay nắm tay. Về đến Le Mans Hall, Connor hôn nàng lần đầu tiên, rồi quỳ xuống và cầu hôn. Maggie phá lên cười, đỏ mặt và chạy vào nhà. Trên đường trở về ký túc xá nam, Connor cũng phá lên cười, nhưng đó là khi anh phát hiện thấy Declan nấp sau một cái cây.
Từ đó, hễ bất cứ lúc nào rỗi rãi là Connor và Maggie lại ở bên nhau. Nàng học về cách làm bàn, về các khu vực và các quả ném biên. Anh thì học về Bellini, Bernini và Luini. Trong suốt ba năm sau đó tối thứ sáu nào anh cũng quỳ xuống cầu hôn. Cứ mỗi khi các bạn cùng đội bóng hỏi tại sao anh không vạch tên nàng lên cánh cửa tủ thì anh chỉ trả lời rất đơn giản: -Tại vì tôi sẽ cưới nàng.
Cuối năm học cuối cùng của Connor, Maggie cuối cùng cũng đồng ý làm vợ anh - nhưng phải chờ đến khi nàng thi xong. Anh nói vẻ chiến thắng: -Như vậy anh chỉ còn phải cầu hôn em 141 lần nữa để khiến em nhìn thấy ánh sáng.
-Ôi, đừng ngốc thế, Connor Fitzgerald - Nàng nói - ngay từ khi gặp anh ở cái ghế băng ấy em đã biết em sẽ sống nốt cuộc đời với anh rồi. Hai tuần sau khi Maggie tốt nghiệp Summa cum Laude họ cưới nhau. Mười tháng sau Tara ra đời |
| | | Ever Clifford
Tổng số bài gửi : 664 Birthday : 30/10/1998 Age : 26 Đến từ : Disney land
| Tiêu đề: Re: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer 22/2/2012, 17:40 | |
| Chương 5
-Có phải bà nghĩ rằng tôi sẽ tin là CIA thậm chí không biết đến một âm mưu ám sát không? Giám đốc CIA điềm tĩnh nói:
-Đúng vậy, thưa ngài. Lúc chúng tôi biết được việc ám sát đó thì nó vừa xảy ra được vài giây. Tôi đã tiếp xúc với Cố vấn an ninh Quốc gia và tôi nghĩ là ông ta đã trực tiếp báo cáo ngay lên ngài ở trại David.
Tổng thống bắt đầu đi đi lại lại trong Phòng Bầu dục, điều đó không chỉ cho phép ông có thêm thời giờ để suy nghĩ, mà còn thường khiến người tiếp chuyện cảm thấy khó chịu. Hầu hết mọi người khi bước vào Phòng Bầu dục thường đã mất bình tĩnh. Đã có lần thư ký riêng của ông nói với ông rằng cứ năm người khách thì có bốn người phải vào phòng nghỉ trước khi đến giờ hẹn gặp Tổng thống. Nhưng ông không tin rằng người đàn bà đang ngồi trước mặt ông kia thậm chí muốn biết rằng phòng nghỉ gần nhất là ở chỗ nào. nếu như có một quả bom nổ trong Vườn hồng đi chăng nữa thì có lẽ Helen Dexter cũng sẽ chỉ đến nhướng đôi lông mày rậm lên là cùng. Cương vị của bà ta đã kéo dài ba đời Tổng thống, và người ta đồn là cả ba vị Tổng thống đó đều có lần đề nghị bà ta từ chức. Dexter nói: -Và khi Lloyd gọi điện cho tôi nói rằng ngài muốn biết chi tiết hơn thì tôi đã yêu cầu Phó của tôi là Nick Gutenberg liên lạc với người của chúng ta ở Botogá và yêu cầu họ điều tra xem chính xác những gì đã xảy ra vào chiều hôm thứ Bảy vừa rồi. Hôm qua Gutenberg đã hoàn thành bản báo cáo của ông ta. Bà ta vỗ lên tập tài liệu để bên cạnh. Lawrence thôi không đi đi lại lại nữa mà dừng lại dưới bức chân dung Abraham Lincoln treo bên trên lò sưởi. Ông nhìn xuống bóng chiếc cổ của Helen Dexter. Bà ta vẫn nhìn thẳng về phía trước. Giám đốc CIA mặc một bộ vét ngắn sẫm màu cắt rất đẹp và chiếc áo sơ mi màu kem giản dị. Hiếm khi bà ta đeo đồ trang sức, thậm chí ngay cả trong những dịp long trọng của nhà nước. Bà ta được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc CIA ở tuổi ba mươi hai, với ý định của Tổng thống thời đó là xoa dịu cuộc vận động hành lang đòi bình đẳng vài tuần trước khi tiến hành cuộc bầu cử năm 1976. Và như đã xảy ra, hoá ra chính ông Tổng thống ấy mới là người lấp chỗ trống. Sau một loạt đời giám đốc ngắn ngủi, người thì từ chức, người thì nghỉ hưu, cuối cùng Dexter đã leo lên chức cao nhất trong cơ quan. Trong bầu không khí nóng bỏng ở Washington có nhiều lời đồn thổi về quan điểm cực hữu của bà ta và những phương pháp bà ta đã sử dụng trong việc vận động, nhưng không một thượng nghị sĩ nào dám chất vấn về việc bổ nhiệm bà ta. Bà ta đã tốt nghiệp Summa cum Laude ở Bryn Mawr, sau đó tốt nghiệp Đại học Luật ở Pennsylvania trước khi tham gia một hãng luật hàng đầu ở New York. Sau một loạt các chức vụ cùng với thời gian cần có để một phụ nữ trở thành người hùn vốn - kết thúc của một vụ kiện trước toà - cuối cùng bà ta nhận lời mời tham gia CIA. Bà ta bắt đầu sự nghiệp bằng một chân Đại diện trong văn phòng một Cục tác chiến, và cuối cùng trở thành Cục phó. Vào lúc được bổ nhiệm thì bà ta đã có nhiều thù hơn là bạn. Nhưng rồi năm tháng qua đi, họ lần lượt hoặc là mất tích, hoặc là về hưu non, hoặc là bị sa thải. Khi được bổ nhiệm làm giám đốc CIA bà ta mới bước sang tuổi bốn mươi. Tờ Washington Post mô tả bà ta đã từng bị ăn một phát đạn qua trần nhà bằng kính, nhưng điều đó cũng không ngăn được người ta tiên đoán là bà ta sẽ chỉ sống thêm được bao nhiêu ngày nữa. Rồi họ lại tiên đoán là bao nhiêu tuần, rồi bao nhiêu tháng. Bây giờ thì người ta đánh cuộc liệu bà ta có tồn tại với cương vị Giám đốc CIA lâu như J.Edgar Hoover với cương vị giám đốc FBI hay không.
Chỉ cần vài ngày kể từ khi dọn đến ở trong Nhà Trắng, Tom Lawrence đã biết được Dextẻ có thể làm những gì để ngăn cản nếu ông muốn chen vào lĩnh vực của bà ta. Nếu ông hỏi điều gì về một lĩnh vực nhạy cảm nào đó thì phải mất hàng tuần bản báo cáo mới được đặt lên bàn ông, và khi đó bản báo cáo thường là dài dòng, không mạch lạc, tẻ ngắt và nhất là đã rất lạc hậu. Nếu như ông gọi bà ta đến Phòng Bầu dục để giải thích về những câu hỏi chưa được trả lời thì bà ta sẽ giả điếc. Nếu như ông thúc ép thì bà ta sẽ chơi trò cầm giờ và rõ ràng nghĩ rằng bà ta sẽ ngồi ở ghế đó sau khi các cử tri hất ông ra khỏi ghế của mình.
Nhưng chỉ đến khi ông đề cử một người vào ghế Chánh án toà Thượng thẩm còn trống thì ông mới hiểu hết Helen Dexter với sự hiểm độc của bà ta. Chỉ vài ngày sau bà ta đã đặt lên bàn ông những tập hồ sơ dày cộp chỉ rõ vì sao không thể chấp nhận được người đề cử đó. Lawrence đã kiên quyết giới thiệu ứng cử viên của mình - đó là một trong những người bạn lâu năm nhất của ông. Nhưng chỉ vài ngày trước ngày ông này đến nhận nhiệm sở thì người ta tìm thấy ông ta treo cổ trong gara. Sau đó Lawrence biết được là tập hồ sơ mật đó đã được gửi đến tay từng Thượng nghị sĩ trong Uỷ ban lựa chọn, nhưng ông chẳng bao giờ chứng minh được ai là người phải chịu trách nhiệm về việc đó.
Đã nhiều lần Andy Lloyd đã cảnh báo là nếu có bao giờ ông định làm cho Dexter rời khỏi chức vụ đó thì tốt nhất là phải có được những bằng chứng có thể thuyết phục được công chúng tin rằng Mẹ Teresa đang có những tài khoản gửi ở ngân hàng Thuỵ sĩ và thường xuyên được các tập đoàn tội phạm bổ sung thêm dư nợ.
Lawrence đã nghe theo lời khuyên của Tổng tham mưu trưởng. Nhưng lúc này ông cảm thấy nếu có thể chứng minh được việc CIA dính líu đến vụ ám sát Ricardo Guzman mà thậm chí chẳng buồn thông báo cho ông biết thì ông sẽ có thể khiến Dexter cuốn gói khỏi bàn làm việc trong vòng một tuần.
Ông quay về chỗ ngồi và bấm một cái nút gắng dưới mặt bàn để Andy có thể theo dõi được cuộc hội thoại hoặc tối nay lấy cuộn băng để nghe lại. Lawrence hiểu rằng Dexter biết rõ ông đang định làm gì, và ông cũng đoán rằng trong chiếc xắc tay huyền thoại mà Dexter kè kè bên mình kia sẽ chẳng có son phấn gương lược - những phụ tùng của giới nữ - mà đã ghi lại đầy đủ những âm thanh trao đổi giữa họ. Tuy vậy ông vẫn cần bản ghi âm của ông, ghi lại đầy đủ các sự kiện.
Tổng thống ngồi xuống và nói: -Vì bà cóvẻ như có được thông tin rất tốt như vậy, có lẽ xin bà hãy báo cáo cho tôi một cách chi tiết hơn về những gì mà thực tế đã xảy ra ở Botogá.
Helen Dexter phớt lờ giọng châm biếm của Tổng thống, bà ta cầm tập hồ sơ để trên vạt váy lên. Ngoài bài tập hồ sơ có hình lô gô của CIA in trên nền trắng và dòng chữ: “Dành riêng cho Tổng thống đọc”.
Lawrence tự hỏi không biết có bao nhiêu tập hồ sơ ghi ngoài bìa dòng chữ “Dành riêng cho Giám đốc đọc”.
Bà ta mở tập hồ sơ ra, đọc: -Có nhiều nguồn tin khẳng định rằng việc ám sát là do một tay súng đơn độc thực hiện.
Tổng thống gằn giọng: -Hãy nói rõ tên của một nguồn tin.
Giám đốc CIA đáp: -Tuỳ viên văn hoá của chúng ta ở Botogá. Lawrence nhướng một bên lông mày. Có tới một nửa số tuỳ viên văn hoá trong các sứ quán Mỹ trên khắp thế giới là người của CIA cài vào chỉ với mục đích sẽ báo cáo trực tiếp về Langley cho Dexter mà không cần xin ý kiến Đại sứ tại nước đó, chứ đừng nói đến Văn phòng nhà nước. Hầu hết bọn họ nghĩ rằng Bộ đồ kẹp hồ đào là một món gì đó có thể tìm thấy trong thực đơn của một tiệm ăn dành riêng nào đó.
Tổng thống thở dài: -Và họ nghĩ rằng ai là người phải chịu trách nhiệm về việc ám sát này? Dexter lại lật qua mấy trang lấy ra một tấm ảnh và đẩy sang bên kia chiếc bàn trong Phòng Bầu dục. Tổng thống nhìn bức ảnh chụp một người đàn ông trung niên mặc bộ vét cắt rất đẹp, trông có vẻ phương phi.
-Vậy đấy là ai?
-Carlos Velez. Hắn ta điều hành tập đoàn buôn ma tuý lớn thứ hai ở Colombia. Còn Guzman dĩ nhiên là kiểm soát tập đoàn lớn nhất.
-Vậy Carlos đã bị bắt chưa?
-Không may, hắn đã bị giết vài giờ trước khi cảnh sát xin được lệnh bắt hắn.
-Tiện thật.
Giám đốc CIA không hề đỏ mặt. Bà ta thì không thể đỏ mặt được- Lawrence nghĩ - Dù sao thì cũng phải có máu mới đỏ mặt được.
-Vậy tên ám sát đó có một cái tên không? Hay là hắn cũng đã chết chỉ vài giờ sau khi lệnh toà…
-Không, thưa ngài, hắn vẫn còn sống nhăn - Giám đốc CIA quả quyết đáp - Tên hắn là Dirk van Rensberg.
Lawrence hỏi: -Những gì người ta biết được về hắn?
-Hắn là người Nam Phi. Gần đây nhất hắn sốngở Durban.
-Gần đây nhất?
-Vâng. Ngay sau vụ ám sát hắn như đã độn thổ ngay lập tức.
-Điều đó là hoàn toàn dễ dàng nếu như chưa bao giờ hắn ở trên mặt đất cả - Tổng thống đáp. Ông chờ xem phản ứng của bà giám đốc CIA, nhưng bà ta vẫn thản nhiên. Cuối cùng ông nói - Vậy chính phủ Colombia có biết những điều đó không, hay Tuỳ viên văn hoá của bà là nguồn tin duy nhất?
-Không, thưa ngài Tổng thống. Rất nhiều thông tin chúng ta nhận được là từ Cảnh sát trưởng Botogá. Thực tế ông ta đã bắt giữ được một kẻ đồng loã với van Rensberg, đó là một bồi bàn ở khách sạn El Belvedere mà từ đó tên giết người đã bắn phát súng ra. Hắn bị bắt trong hành lang, chỉ vài phút sau khi đã giúp tên giết người trốn thoát trong thang máy vận chuyển hàng hoá.
-Vậy chúng ta có biết tí gì về các hành vi của van Rensberg sau vụ ám sát không?
-Dường như hắn đã đáp máy bay đi Lima dưới cái tên Alistair Douglas, sau đó đi tiếp đến Buenos Aires cũng bằng cái tên đó. Từ đó chúng ta bị mất hút hắn.
-Và tôi ngờ rằng bà sẽ chẳng bao giờ tìm được hắn nữa.
-Ồ,tôi không bi quan như vậy đâu, thưa ngài Tổng thống - Dexter nói, phớt lờ giọng châm biếm của Lawrence - Thường thường bọn ám sát thuê đơn độc đó sẽ biến mất trong nhiều tháng sau một vụ quan trọng. Hắn sẽ chỉ lại xuất hiện khi tình hình đã nguội đi.
Tổng thống nói: -Vậy tôi xin cam đoan với bà là tôi có ý định giữ cho tình hình tiếp tục nóng.Lần sau khi chúng ta gặp nhau có thể tôi sẽ có một bản báo cáo của mình để bà xem xét.
-Tôi sẽ chờ để được đọc nó - Dexter nói, hệt như một đứa học sinh đầu bò chẳng hề biết sợ thầy hiệu trưởng.
Tổng thống bấm một cái nút dưới bàn Một giây sau có tiếng gõ cửa và Andy Lloyd bước vào phòng. Không cần để ý đến sự có mặt của Dexter, ông ta nói: -Thưa ngài Tổng thống, mấy phút nữa ngài có cuộc hội kiến với thượng nghị sĩ Bedell. -Vậy thì tôi xin phép được đi, thưa ngài Tổng thống.
Dexter nói và đứng dậy. Bà ta đặt tập hồ sơ lên bàn Tổng thống, cầm cái xắc lên và ra khỏi phòng không nói thêm một lời nào nữa. Tổng thống không nói năng gì cho đến khi giám đốc CIA khép cửa lại.
Rồi ông quay sang Tổng Tham mưu trưởng. -Tôi chẳng tin lấy một lời ở đó - Ông lầm bầm và vứt tập tài liệu vào khay chuyển đi. Lloyd ghi nhớ là ngay sau khi ông chủ rời khỏi phòng cần phải đến để lấy nó đi.
-Tôi cho là điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là khiến cho bà ta biết sợ Chúa một chút để cho bà ta không tính đến một vụ khác kiểu này trong khi tôi còn ngồi trong Nhà Trắng.
-Ngài Tổng thống, hãy nhớ đến cái cách bà ta đã đối xử với ngài khi ngài còn là một Thượng nghị sĩ. Tôi sẽ chẳng đặt nhiều tiền lên điều đó đâu.
-Bởi vì tôi làm sao có thể thuê được một tên giết người để ám sát bà ta, vậy thì anh nghĩ là tôi có thể làm được gì bây giờ?
-Theo tôi thì bà ta để cho ngài lựa chọn một trong hai điều, thưa ngài Tổng thống. Hoặc là ngài sẽ cách chức bà ta và hiển nhiên là sẽ phải điều trần trước Thượng nghị viện. Hoặc là ngài hãy chấp nhận thất bại và đồng ý với cách giải thích của bà ta về những điều đã xảy ra ở Botogá, và hy vọng lần sau bà ta sẽ hợp tác tốt hơn.
Tổng thống khẽ nói: -Còn có một cách thứ ba nữa.
Lloyd chăm chú lắng nghe không hề xen lời. Rõ ràng là Tổng thống đã cân nhắc rất nhiều về việc làm thế nào để có thể cất chức Helen Dexter ra khỏi cái ghế giám đốc CIA.
Connor nghĩ ngợi trong khi nhìn lên băng chuyền. Băng chuyền đã bắt đầu hất ra những vali hành lý của chuyến bay của gã, một số hành khách đã bước lên để nhặt những vali đầu tiên.
Gã vẫn cảm thấy buồn vì không có mặt vào lúc con gái được sinh ra. Mặc dù vẫn nghi ngờ về sự khôn ngoan của các chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng Connor vẫn thừa hưởng được lòng yêu nước của gia đình gã. Gã xung phong vào phục vụ trong quân đội và tốt nghiệp khoá sĩ quan dự bị trong khi chờ Maggie học xong. Cuối cùng họ chỉ được nghỉ để làm lễ cưới và hưởng bốn ngày trăng mật trước khi Thượng uý Fitzgerald lên đường sang Việt Nam vào tháng bảy năm 1972.
Hai năm ấy ở Việt Nam giờ đây chỉ còn là những ký ức xa xăm. Được thăng cấp lên đại uý, bị Việt cộng bắt, rồi trốn thoát trong khi cứu mạng một người khác - tất cả dường như đã xa lắc đến nỗi gã hầu như có thể thuyết phục được mình rằng những chuyện đó chưa từng xảy ra. Năm tháng sau khi gã trở về nhà, Tổng thống đã trao tặng gã huân chương cao quý nhất - Huân chương Danh dự, nhưng sau mười tám tháng là tù binh ở Việt Nam gã chỉ cảm thấy sung sướng vì còn sống và được đoàn tụ với người đàn bà mình yêu. Và lúc nhìn thấy Tara, gã lại một lần nữa rơi vào tình yêu si mê.
Chỉ trong vòng môt tuần sau khi trở về Mỹ Connor bắt đầu tìm một việc làm. Gã đã được phỏng vấn để vào làm việc cho văn phòng CIA ở Chicago, vừa lúc đó Đại uý Jackson - chỉ huy đơn vị cũ của gã bất ngờ đến chơi. Ông ta mời gã tham gia một bộ phận vừa được thành lập ở Washington. Người ta báo trước với Connor rằng nếu gã đồng ý làm việc trong bộ phận của Jackson thì phải tuân theo một điều : đó là không bao giờ được nói chuyện về công việc với bất cứ ai, kể cả với vợ. Khi biết được điều đó, gã đã nói với Jackson là cần phải suy nghĩ thêm chút nữa trước khi quyết định. Gã đã thảo luận với mục sư của gia đình là cha Graham về vấn đề này. Cha chỉ khuyên gã một cách rất đơn giản: -Đừng bao giờ làm một việc mà con thấy là không chính đáng, dẫu cho đó nhân danh tổ quốc đi chăng nữa.
Khi Maggie được mời làm việc cho khoa Nhân van của Trườgn Đại học Tổng hợp Georgetown, Connor mới hiểu rằng Jackson đã quyết tuyển mộ gã. Ngày hôm sau gã viết thư cho chỉ huy đơn vị cũ và nói rằng gã rất vui mừng được làm việc cho công ty bảo hiểm Maryland với chức danh tập sự.
Sự dối trá bắt đầu từ đó.
Mấy tuần sau Connor, Maggie và Tara chuyển đến Georgetown. Họ tìm được một ngôi nhà nhỏ ở Avon Place. Tiền đặt cọc được trả bằng những tấm séc quân đội mà Maggie đã gửi vào tài khoản mang tên Connor, nàng nhất định không chịu tin rằng gã đã chết.
Trong những năm đầu họ sống ở Washington, điều duy nhất khiến họ buồn rầu là Maggie bị sẩy hai lần, rồi bác sĩ phụ khoa của nàng khuyên là nàng nên dừng ở một con. Phải đến lần sẩy thứ ba Maggie mới chịu chấp nhận lời khuyên của bác sĩ.
Mặc dầu đến giờ họ lấy nhau đã được ba mươi năm Maggie vẫn có thể khơi dậy ở Connor nỗi ham muốn chỉ bằng một nụ cười và đưa tay vuốt dọc lưng gã. Gã biết rằng khi bước ra khỏi cửa phòng hải quan và nhìn thấy nàng đang chờ gã trong phòng đợi thì mọi sự lại y nguyên như thuở ban đầu. Gã mỉm cười với ý nghĩ nàng đã đứng chờ ơ sân bay ít nhất một giờ trước khi máy bay hạ cánh.
Vali của gã hiện đến trước mặt. Gã nhặt lấy nó và đi về phía cửa ra. Connor đi qua hàng lan can sắt, tin rằng thậm chí nếu người ta có khám vali của gã thì cũng chẳng có gì đáng chú ý hơn ngoài con linh dương gỗ trên chân có khắc hàng chữ Sản xuất tại Nam Phi.
Vừa bước vào phòng chờ gã đã nhìn thấy ngay vợ và con gái đang đứng giữa đám đông. Gã đi nhanh và mỉm cười với người phụ nữ gã ngưỡng mộ. Làm thế nào mà nàng lại để ý đến gã chứ đừng nói đến việc nàng đã đồng ý làm vợ gã? Nụ cười nở rộng trên môi khi gã ôm choàng lấy nàng. Gã hỏi: -Em thế nào, em yêu?
Nàng thì thầm: -Em chỉ sống lại khi biết rằng anh vừa làm nhiệm vụ an toàn trở về.
Gã cố tỏ ra không để ý đến từ “an toàn” và buông nàng ra để quay sang với người phụ nữ thứ hai của đời mình. Hơi cao hơn nguyên bản một tí, cũng với mái tóc dài đỏ rực mà đôi mắt xanh sáng ngời, nhưng điềm tĩnh hơn. Cô con gái độc nhất ôm chặt lấy bố và hôn lên má gã khiến gã cảm thấy mình trẻ lại đến mười tuổi.
Vào ngày lễ đặt tên thánh cho Tara, Cha Graham đã cầu xin đức Chúa trời ban cho đứa bé sắc đẹp của Maggie và trí tuệ cũng của Maggie. Tara lớn lên, thứ hạng của cô ở trường học và những cái đầu ngoái lại trên phố chứng tỏ cha Graham không chỉ là một mục sư mà còn là nhà tiên tri. Connor đã chán không còn muốn chiến đấu với dòng người ngưỡng mộ đến gõ cửa ngôi nhà nhỏ của họ ở Georgetown, thậm chí chán không buồn trả lời mỗi khi chuông điện thoại reo nữa. Bởi vì hầu hết toàn là những anh chàng lúng búng hy vọng con gái gã nhận lời một cuộc hẹn.
Maggie khoác tay chồng và hỏi: -Nam Phi thế nào ?
-Ngày càng thở nên bấp bênh hơn - Connor đáp. Gã đã được thông báo đầy đủ về các vấn đề ở Nam Phi trong bữa ăn trưa với Carl Koeter ơ Cape Town, thêm vào nữa là cả một tập báo mà gã đã đọc trên đường đến Sydney - Tỷ lệ tội phạm tăng lên ở tất cả các thành phố lớn, nghĩa là lái xe vượt đèn đỏ sau khi trời tối không còn là phạm luật nữa. Mbeki đã hết sức cố gắng, nhưng anh e rằng vẫn phải khuyến cáo với công ty giảm bớt các khoản đầu tư vào khu vực đó của thế giới, ít nhất cho tới khi tin rằng người ta có thể kiểm soát được cuộc nội chiến.
Maggie nói: -Khi tất cả sụp đổ - Khu trung tâm không còn - Chỉ còn lại sự hỗn loạn bao trùm lên thế giới.
Connor nói: -Anh nghĩ là Yeast chưa bao giờ đến thăm Nam Phi.
Hầu như lúc nào gã cũng muốn nói với Maggie tất cả sự thật và giải thích vì sao trong bao năm nay gã phải sống một cuộc sống dối trá. Nhưng điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Nàng có thể là bà chủ của gã, nhưng họ cũng là chủ, và gã đã luôn luôn tuân thủ điều luật hoàn toàn im lặng. Suốt bao nhiêu năm gã đã cố gắng tự thuyết phục mình rằng hoàn toàn không biết gì về sự thật là tốt nhất cho nàng. Nhưng khi nang nói đến chữ “nhiệm vụ” và “an toàn” một cách không suy nghĩ như vậy gã nhận ra rằng nàng biết nhiều hơn gã tưởng. Không hiểu trong lúc ngủ gã có nói mơ không? Nhưng thôi, hãy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa đâu, gã sẽ không phải lừa dối nàng nữa. Maggie vẫn chưa biết rằng Botogá là nhiệm vụ cuối cùng của gã. Trong kỳ nghỉ này gã sẽ nói bóng gió về môt sự thăng tiến cho phép gã không phải đi xa nhiều như trước nữa.
Maggie hỏi: -Thế còn công việc thế nào? Chúng ta có thể thu xếp được không?
-Công việc ư? À,có chứ, nói chung là khá tốt so với kế hoạch - Connor nói. Đó là điều gần nhất với sự thật mà gã dám nói với vợ.
Connor bắt đầu nghĩ đến hai tuần tới được phơi mình dưới ánh nắng mặt trời. Trong khi họ đi qua một cột báo, gã thoáng nhìn thấy một dòng tít nhỏ trên cột báo bên trái của tờ Sydney Morning Herald. Phó Tổng thống Mỹ sẽ đi dự lễ tang ở Colombia.
Maggie buông tay chồng ra, họ ra khỏi nhà thờ để đi ra ngoài khoảng không ngập tràn không khí ấm áp, và đi về phía bãi đỗ xe. Tara hỏi: -Lúc Cape Town bị ném bom thì bố đang ở đâu?
Koeter chẳng hề nói năng gì đến việc Cape Town bị ném bom cả. Liệu có lúc nào gã có thể cảm thấy thư thái được không?
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer | |
| |
| | | | Điều lệnh thứ 11 - Jeffrey Archer | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|