Conan Fan Club |
|
| Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 1/1/2010, 23:03 | |
| First topic message reminder :Đây là tập truyện mà bạn tớ cho mượn "làm tin" cùng với truyện "Ông già Khôt-ta-bit" (Cho thằng bạn hay quên trả sách mượn quyển Sherlock Holmes, phải lấy làm tin hai quyển cho nó không quên!) Anyway, đây là một tác phẩm của Alexandre Dumas, còn được biết đến là Dumas cha (hai cha con ông cùng làm nhà văn) Truyện này theo ý kiến của cá nhân tớ rất hay, nó đã phản ánh được hiện thực lịch sử của đất Pháp trong thời kỳ đó, với nhân vật chính là d'Artagnan và ba người lính ngự lâm bạn anh. Nguồn truyện: vnthuquan.net Chương 1
Ba tặng vật của ông D' Artagnan bố.
Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng (1) nơi sinh tác giả của cuốn Tiểu thuyết Hoa hồng dường như trong một cơn cách mạng như thể người theo giáo phái Canvanh(2) lần thứ hai lại tới vây hãm Pháo thành La Rochelle(3). Nhiều thị dân thấy đàn bà ở phố lớn chạy trốn, trẻ con kêu khóc nơi ngưỡng cửa, liền vội vã khoác chiến bào, và bằng một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò. Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra, không mấy khi lại không có thành phố này, thị trấn nọ ghi ký vào sổ lưu trữ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau. Quốc vương khai chiến với Giáo chủ. Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì, ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng, lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống bọn trộm cướp, chống lại lũ sói, chống lũ lính hầu, cũng thường chống lại các lãnh chúa và bọn giáo phái Canvanh, đôi khi chống cả nhà Vua, nhưng không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Do đã quen như vậy nên ngày thứ hai tháng tư năm 1625 nói trên, nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ(4) eũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán Chu cối xay. Đến đó rồi, ai cũng thấy và nhận ra nguyên nhân sự náo động. Một chàng trai trẻ, hãy phác chân dung chàng bằng một nét bút thôi: Các bạn hãy hình dung một Đông Kihôtê(5) mười tám tuổi, Đông Kihôtê bị lột vỏ, không áo giáp, không xà cạp, chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã biến thành một màu nâu, tả giữa cặn rượu vang và da trời. Mặt dài sạm nâu, gò má cao, dấu hiệu của sự giảo hoạt, quai hàm bành rộng, nhân dạng không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi không có mũ nồi, mà chàng trai trẻ của ta lại đội mũ nồi gắn lông chim, mắt mở to và thông minh, mũi khoằm, nhưng thanh tú, có vóc người quá to đối với chàng trai sắp thành niên, mà một con mắt ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành, nếu không có thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo bằng da, đập vào bắp chân người chủ khi đi bộ và đập vào lớp lông dựng đứng của con vật cưỡi. Do chàng trai trẻ có một con ngựa và con vật đó rất chi đặc biệt khiến người ta phải chú ý: đó là một con nghèo nhỏ vàng Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi, màu vàng áo, không bờm đuôi, nhưng không phải không có chai ở các vó và khi đi, đầu thõng xuống quá dưới gối, khiến cho việc thắng cương đai trở nên vô ích mà vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con nghẽo lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã của nó, khiến cho trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa, thì việc một con nghẽo nhỏ con của xứ Măng nói trên, mười lăm phút trước đây, qua cửa ô Bôgiăngxi, lọt vào xuất hiện ở đây đã tạo nên một cảm giác thiếu thiện cảm lan sang cả tới chủ nhân của nó. Và cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D artagnan trẻ tuổi (được mệnh danh là chàng Đông Kihôtê của con ngựa Rốtxirăngtê khác là vì như thế đến nỗi chàng chẳng hề giấu mình cái khía cạnh lố lăng đem đến cho chúng, dù chàng có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con nghẽo như thế, cũng như chàng đã thườn thượt thở dài khi nhận món quà mà ông D artagnan bố đã ban tặng. Chàng không phải không biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn những lời lẽ kèm theo món quà thì là vô giá. - Này con! Vị quý tộc xứ Gascogne nói bằng thứ tiếng thuần Bearn mà Vua Henri IV chẳng bao giờ có thể nói khác nổi: "Con ngựa này sinh ra trong ngôi của cha con, đã sống ở đây từ bấy đến nay, sắp tròn mười ba tuổi, sẽ khiến con phải yêu quý nó. Đừng bao giờ bán nó, hãy để nó được chết già trong danh dự và lặng lẽ. Nếu con đi đường cùng nó, hãy đối xử với nó như với một lão bộc. Tới triều đình - Ông D Artagnan bố nói tiếp - nếu có vinh dự đến đó, thật ra vinh dự thì dòng dõi quý tộc lâu đời của con đã cho con quyền đó rồi, hãy bảo vệ xứng đáng danh hiệu quý tộc của con, danh hiệu mà tổ tiên đã giữ nó một cách xứng đáng hơn năm trăm năm nay, hãy bảo vệ nó vì con và vì những người thân của con, ý cha muốn nói đấy là cha và bạn bè con. Đừng bao giờ ủng hộ ai mà chỉ với Giáo chủ và nhà Vua. Hãy nghe cho rõ, thời buổi bây giờ, một người quý tộc chỉ lập nghiệp bằng lòng dũng cảm, chỉ riêng lòng dũng cảm của mình thôi. Kẻ nào run sợ trong giây phút có thể để tuột mất cơ may mà chỉ đúng trong giây phút đó vận may mới chìa tay với họ. Con còn trẻ, con phải can trường bởi hai lẽ: thứ nhất, chính vì con là dân Gátxcông và thứ hai, con là con bố. Đừng sợ những cơ hội và hãy tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Bố đã cho con học múa gươm. Con có khoeo chân sắt, cổ tay thép, hãy chiến đấu vào mọi lúc, các cuộc quyết đấu càng bị cấm đoán, do đó càng phải chiến đấu bằng gấp đôi lòng dũng cảm. Con trai ạ, ta chỉ có mười lăm đồng vàng, con ngựa của ta và những lời khuyên như con vừa nghe để cho con. Mẹ con sẽ thêm vào đó cách chế một món thuốc cao học được của một bà Bôhêmiêng, có một công năng kỳ lạ chữa khỏi mọi vết thương không chạm vào tim. Hãy tận dụng mọi cái, và hãy sống hạnh phúc và trường thọ, ta chỉ còn một điều nữa để nói thêm, đó chính là tấm gương ta nêu với con, không phải của ta, bởi ta chưa bao giờ có mặt ở triều đình, mà ta chỉ tình nguyện tham gia chiến tranh tôn giáo, mà ta muốn nói đến ông Treville xưa từng là láng giềng của ta, người đã có vinh dự khi còn tấm bé đã chơi với Vua Louis XIII của chúng ta. Đôi khi trò chơi của họ chuyển thành các trận choảng nhau, và trong những trận chiến ấy nhà Vua không phải lúc nào cũng là kẻ mạnh hơn. Những miếng đòn nhà Vua nhận được khiến Ngài càng thêm khâm phục, và thân thiết nhiều hơn với ông Treville. Sau này lần đầu tiên trong chuyến đến Paris, ông Treville đã chiến đấu chống lại những kẻ khác năm lần. Từ eái chết của nhà Vua quá cố đến khi nhà Vua trẻ trưởng thành, không kể các cuộc chiến tranh và các cuộc vây thành, ông chiến đấu bảy lần, và từ khi nhà Vua trưởng thành đến nay, có lẽ tới trăm lần. Vì vậy, mặc dầu những pháp lệnh, những chỉ dụ, những sắc lệnh(6) thế mà thấy không, ông vẫn cứ là đại úy ngự lâm quân, có nghĩa là chỉ huy binh đội Céda mà nhà Vua chủ yếu dựa vào đó, còn Giáo chủ thì kiêng nể, vị Giáo chủ như mọi người đều biết, có kiêng nể điều gì đâu. Hơn nữa, ông Treville kiếm mười nghìn đồng tiền vàng mỗi năm, vậy là cỡ một đại lãnh chúa mạnh rồi. Ông ta cũng khởi đầu như con. Hãy đến gặp ông cùng với bức thư này, và hãy noi gương ông để làm sao được như ông". Tới đây, ông D Artagnan bố đeo thanh kiếm của mình, cho con trai, trìu mến ôm hôn chàng lên hai bên má và cầu phúc cho chàng. Rời khỏi phòng cha, chàng trai thấy mẹ mình đang đợi mình với phương thuốc trứ danh, theo lời dặn dò của ông bố sẽ luôn luôn cần đến cho chàng. Cuộc giã biệt ở đây lâu la hơn và trìu mến hơn "cuộc giã biệt" vừa rồi, chẳng phải vì ông D Artagnan bố không yêu con trai, kẻ nối dõi độc nhất của mình, nhưng ông ta là một người đàn ông và sẽ bị xem là không xứng đáng khi phó mặc mình cho cảm xúc, còn như bà D Artagnan, bà là đàn bà, hơn nữa là mẹ. Bà khóc sướt mướt, và phải khen chàng D Artagnan con, đã cố gắng để tỏ ra cứng rắn như một ngự lâm quân tương lai cần phải thế, nhưng bản năng cuốn chàng theo khiến nước mắt chàng lã chã tuôn rơi, khó khăn lắm mởi giấu đi được một nửa. Cùng ngày hôm ấy, chàng trai trẻ lên đường mang theo ba tặng vật của cha như đã nói, gồm mười lăm đồng vàng, con ngựa và bức thư cho ông Treville, hơn nữa có cả những lời khuyên nữa. Với một hành trang như vậy, D Artagnan thấy mình về tinh thần cũng như thể xác, như một bản sao chính xác nhân vật của Xécvăngtéc mà ta đã đem ra so sánh một cách rất chi thích đáng, khi mà nhiệm vụ của một sử gia buộc chúng tôi cần thiết phải phác họa chân dung chàng. Đông Kihôtê coi những cối xay gió như những gã khổng lồ và lũ cừu là nhứng đoàn quân, còn D artagnan lại coi mỗi nụ cười là một sự lăng mạ và mỗi cái nhìn là một sự khiêu khích. Vì vậy, dọc đường từ Tarbes (7) đến Măng, chàng luôn giữ chặt nắm đấm, và tay kia vì lý do này khác đặt lên đốc gươm đến mươi lần trong ngày, tuy nhiên nắm đấm chưa hề quai xuống hàm ai và gươm cũng không hề tuốt ra khỏi vỏ. Không phải con nghẽo con màu vàng hãm tài kia không gây cười trên khuôn mặt khách qua đường, mà chính vì bên sườn con ngựa còi ấy còn lạch phạch một thanh gươm dài đáng nể, và bên trên long lanh con mắt nom có vẻ dữ tợn hơn là kiêu hãnh, khách qua đường vì vầy thường cố nén để không rũ ra cười, hoặc dù cẩn tắc cũng không nén nổi, cũng phải cố chỉ cười nửa miệng giống như nhửng vai hề cổ. Cho nên D Artagnan vẫn đường đường oai phong, không sao trước cái tính nóng nảy cố hữu cho tới khi đến cái thị trấn Măng khốn khổ này. Nhưng nơi đây khi chàng vừa xuống ngựa trước cửa lữ quán Chủ cối xay, chẳng người nào, từ chủ quán, hầu bàn, người coi ngựa, tới giữ bàn đạp ngựa cho chàng ở bậc lên xuống ngựa. D artagnan trông thấy ở khuôn cửa sổ hé mở của tầng trệt một nhà quý tộc, vóc dáng đẹp, vẻ kiêu kỳ, tuy nét mặt hơi cau có đang nói gì đó với hai người đang nghe một cách kính nể. Theo thói quen, D Artagnan hoàn toàn tự nhiên tin rằng mình là đối tượng của câu chuyện và lắng nghe. Lần này chàng chỉ nhầm có một nửa: vấn đề không phải là chàng mà là con nghẽo của chàng. Gã quý tộc như đang liệt kê cho đám người nghe tất cả các thuộc tính của con nghẽo và như vì đã nói, người nghe xem ra rất kính nể người kể chuyện, mỗi lúc họ lại phá lên cười. Mà chỉ một nửa nụ cười cũng đủ khơi dậy cái tính dễ nổi cáu của chàng trai trẻ, sẽ hiểu ngay những chuỗi cười ầm ĩ như thế sẽ tạo nên hiệu quả thế nào đối với chàng. Thế nhưng D artagnan trước hết muốn thấy rõ được bộ mặt của kẻ hỗn xược đang nhạo mình. Chàng găm cái nhìn kiêu hãnh vào kẻ lạ mặt và nhận ra một người đàn ông khoảng bốn mươi, bốn nhăm tuồi, đôi mắt đen và sắc nhọn nước da xanh tái, mũi rất cao, ria mép đen, tỉa xén hoàn hảo. Hắn ta mặc áo chẽn ngắn và quần ống túm màu tím có tua cùng màu, không có bất kỳ trang sức nào ngoài những rãnh xẻ quen thuộc để luồn áo lót qua đó. Quần ống túm và áo chẽn màu dù còn mới, lại có vẻ dầu dãi như những trang phục du hành xếp kín lâu trong valy lớn. D artagnan tiếp nhận tất cả những đặc điểm đó với sự mau lẹ của một quan sát viên tỉ mỉ nhất và chắc chắn bởi một linh tính mách bảo chàng rằng con người xa lạ kia ắt có một ảnh hưởng lớn đến đời chàng sau này. Đúng lúc D Artagnan chăm chăm nhìn vào nhà quý tộc mặc áo chẽn tím, hắn ta đưa ra một nhận xét hóm hỉnh nhất và sâu sắc nhất về xứ sở của con nghẽo còi vùng Bearn, hai thính giả của hắn phá lên cười, còn bản thân hắn, trái với thói quen thường lệ, cũng để lộ cho mọi người thấy, lướt qua một nụ cười nhợt nhạt trên bộ mặt hắn. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, D artagnan đã thực sự bị lăng nhục. Vì thế, tin chắc như vậy, kéo mũ xuống tận mắt, và cố bắt chước một số điệu bộ trong chốn triều đình mà chàng bất ngờ bắt gặp ở những bậc vương công du hành qua vùng Gátxcông, chàng tiến lên, một tay đặt vào chuôi gươm và tay kia chống háng. Khốn nỗi, càng tiến lên, cơn giận mỗi lúc càng làm chàng thêm mù quáng, đáng lẽ phải có một khẩu khí trang trọng và kiêu hãnh mà chàng đã chuẩn bị để phô diễn sự thách thức của mình, chàng chỉ còn thấy nơi đầu lưỡi ngôn từ của một nhân cách thô lỗ kèm theo cách hành xử cuồng dại. - Này, ông kia! - Chàng hét lên - Cái ông nấp sau cánh cửa sổ kia! Phải, chính ông, hãy nói ta nghe xem ông cười cái gì nào, rồi chúng ta sẽ cùng cười. Nhà quý tộc chậm rãi đưa mắt nhìn từ con ngựa lên chàng kỵ sỹ, như thể cần phải có thời gian ấy để hiểu rằng những lời trách móc lạ lùng đến thế chính là dành cho mình, rồi không thể nghi ngờ gì nữa, đôi lông mày hơi cau lại, và sau khoảng lâu dừng lại, hắn ta trả lời D artagnan bằng một giọng mỉa mai và xấc xược không thể tả được: - Tôi không nói với ông, thưa ông. - Nhưng ta, ta nói với ông! Chàng trai trẻ giận sôi lên và hét to, trước thái độ vừa xấc xược vừa nhã nhặn, vừa lịch thiệp vừa khinh thị pha lẫn với nhau. Kẻ xa lạ còn nhìn chàng một lát rồi với nụ cười thoáng qua rồi ra khỏi cửa sổ, từ từ ra khỏi lữ quán đi về phía D Artagnan cách hai bước chân rồi đứng thẳng đối mặt với con nghẽo. Thái độ bình tĩnh và vẻ mặt châm biếm của hắn càng khiến cho bọn người vừa chuyện trò với hắn, vẫn ở nơi cửa sổ cười to gấp đôi. D Artagnan thấy hắn tiến đến, liền rút gươm nhích ra khỏi vỏ hơn một gang tay. - Con ngựa này chắc chắn, hay đúng hơn lúc trẻ từng có màu vàng cúc áo. Kẻ xa lạ tiếp tục lặp lại những soi mói đã từng bắt đầu với bọn người nghe của y ở cửa sổ, tựa như không thèm để ý đến cơn điên giận sôi lên của D Artagnan lúc đó đã đứng ở giữa y và họ. Đó là một màu rất quen thuộc của thực vật học, nhưng đến nay rất hiếm thấy ở loài ngựa. Đệ tử của ông Treville giận giữ thét lên: - Kẻ cười giễu con ngựa là kẻ không dám cười chủ nó! - Tôi thường không hay cười, thưa ông. - Kẻ lạ mặt tiếp - Tự ông, ông cũng có thể thấy như thế trên vẻ mặt của tôi, song tôi vẫn bảo lưu đặc quyền được cười khi tôi thích. - Còn ta - D Artagnan - ta không muốn người ta cười khi nó làm ta khó chịu. - Thật thế ư, thưa ngài? - Kẻ lạ mặt tiếp tục với vẻ càng bình tĩnh hơn bao giờ hết - Thế thì, chí lí quá đi rồi? Rồi quay gót, hắn đang định trở vào lữ quán theo lối cửa lớn mà dưới cửa, khi D Artagnan đến đây đã thấy một con ngựa đóng sẵn yên cương. Nhưng D Artagnan không phải loại dễ bỏ qua như thế với một kẻ đã hỗn xược chế nhạo mình. - Quay lại! Quay lại nào, ông hay châm biếm, ta không muốn đánh ông phía sau lưng đâu. - Đánh tôi, tôi ấy à? - Người kia vừa nói vưa quay gót lại nhìn chàng trai trẻ hết sức ngạc nhiên cũng như khinh bỉ - Chà, thế kia đấy. Ông bạn quý, anh điên rồi. Rồi hạ giọng như thể nói với chính mình: - Phiền thật. - Y tiếp tục - thế mà Hoàng Thượng cứ phải đi tìm những kẻ can trường ở những đâu đâu để trưng tuyển vào ngự lâm quân của ngài! Người lạ vừa nói dứt, D Artagnan đã vươn tay xỉa tới một mũi gươm thịnh nộ đến nỗi nếu không nhanh chân nhảy lùi lại, có lẽ đây sẽ ìà lần cuối cùng hắn được bông đùa. Người lạ mặt lúc đó thấy sự thể đã vượt qua trò nhạo báng, liền rút gươm ra chào địch thủ và nghiêm trang thư thế. Nhưng cũng đúng lúc ấy, hai thính giả của y, kèm theo chủ quán nhảy bổ vào D artagnan phang chàng bằng những đòn gậy, xẻng, và que gắp than. Điều đó làm chệch hướng thật nhanh chóng, thật hoàn hảo cuộc tấn công, khiến cho trong khi D artagnan quay lại đối mặt với trận mưa đòn, đối thủ của chàng cũng tra gươm vào vỏ với cùng độ chính xác, và đang suýt là một diễn viên nay lại trở thành khán giả của trận chiến, một vai mà hắn rất thạo với vẻ bình thản thường tình của mình, tuy vẫn không ngớt làu bàu: - Cái giống Gascogne ôn dịch! Bê hắn lên con ngựa vàng cam của hắn và để hắn xéo đi. - Không trước khi ta giết mi đâu, đồ hèn! - D Artagnan vừa hét vừa đem hết sức đối địch, không lùi một bước trước ba kẻ thù, đang phang chàng túi bụi. - Lại một thói Gascogne ! - Nhà quý tộc lẩm bẩm - Ta thề đấy, lũ Gascogne này đều là lũ bất trị! Nó đã muốn vậy, cứ để nó tiếp tục múa may. Khi nào nó mệt nó sẽ nói nó múa thế đủ rồi. Nhưng người lạ mặt còn chưa hiểu mình đang phải đương đầu với một kẻ ương bướng đến mức nào, D Artagnan không bao giờ là người chịu xin thua. Cuộc đấu tiếp tục thêm mấy giây nữa, cuối cùng D artagnan kiệt sức để tuột gươm, một nhát gậy đánh gãy gươm làm đôi. Một đòn khác nện chàng vào trán gần như cùng một lúc làm chàng lộn nhào. Máu chảy đầm đìa, gần như bất tỉnh. Chính vào lúc đó, từ mọi phía người ta chạy đến nơi đang xảy ra chuyện. Chủ quán sợ tai tiếng, với sự giúp đỡ của mấy gã hầu bàn, khiêng kẻ bị thương vào bếp, chăm sóc qua loa. Còn nhà quý tộc thì đã trở lại chỗ cũ bên cửa sổ nhìn đám đông ấy một cách bồn chồn, có vẻ như việc họ cứ đứng ỳ ra đấy làm cho hắn rất bực bội. - Thế nào, thằng điên ấy ra sao rồi? Hắn quay lại khi nghe tiếng cửa mở, hỏi chủ quán vừa bước vào thăm sức khỏe của hắn. - Thưa đại nhân, ngài không sao chứ ạ? - Chủ quán hỏi. - Phải, hoàn toàn vô sự, ông chủ quán thân mến ạ và chính tôi đang muốn hỏi ông chàng trai trẻ của chúng ta ra sao rồi? - Hắn đang khá hơn. Vừa rồi bất tỉnh hoàn toàn. - Thật thế ư? - Nhưng trước khi ngất, hắn còn thu hết tàn lực réo tên ngài và vừa réo vừa thách thức ngài. - Thế thì cái gã táo tợn ấy đúng là quỷ hiện hình rồi. - Ồ không! Thưa đại nhân, không phải là quỷ - Chủ quán vừa nói vừa nhăn mặt tỏ ý khinh bỉ - Vì trong khi hắn mê man, chúng tôi đã lục soát hắn, và hắn chỉ có trong bọc hành lý một áo lót và trong túi tiền mười hai đồng vàng. Điều đó không ngăn hắn ta trong khi sắp ngất nói ra rằng nếu sự việc như thế diễn ra ở Paris, ngài sẽ phải hối tiếc ngay tức khắc, còn ở đây ngài sẽ thấy hối tiếc sau này. - Thế thì - Người lạ mặt lạnh lùng - hắn dòng dõi bậc hoàng thân nào đó cải trang. - Thưa tôn ông, tôi nói với ngài điều đó - Chủ quán nói tiếp - là để ngài đề phòng. - Và trong cơn điên giận hắn không nói rõ tên ai? - Có chứ, hắn vỗ túi nói: "Rồi sẽ thấy ngài Treville sẽ nghĩ thế nào về việc lăng mạ này đối với người được ngài bảo vệ". - Ông Treville ư? - Người lạ vừa nói vừa đăm chiêu - Hắn vỗ túi và thốt ra tên ông Treville ư? Xem nào, ông chủ quán thân mến, trong khi gã trai trẻ bất tỉnh, tôi tin chắc, ông lại chẳng không nhìn vào chiếc túi đó ư. Túi có gì? - Một phong thư gửi ngài De Treville, đại úy ngự lâm quân. - Thật vậy ư? - Thưa đại nhân, đúng như tôi có vinh dự được nói điều đó với ngài. Chủ quán, vốn không được phú cho đầu óc mẫn tiệp, không hề nhận thấy những lời nói của mình khiến cho vẻ mặt người lạ thay đổi thế nào. Người đó rời bậc cửa, nơi vẫn chống khuỷu tay, chau mày ra chiều lo lắng. - Quỷ thật! - hắn thầm thì qua kẽ răng - Treville chả nhẽ lại gửi đến ta tên Gátxcông này? Hắn non trẻ quá! Nhưng một đường gươm vẫn là một đường gươm, bất kể tuổi tác của người vung gươm, và người ta ít coi chừng một đứa trẻ hơn bất kỳ kẻ nào khác. Đôi khi chỉ cần một trở ngại nhỏ để cản phá một mưu đồ lớn. Người lạ trở nên trầm tư trong ít phút. - Này chủ quán - hắn nói - có phải ông sẽ không loại bỏ giúp ta cái tên cuồng loạn này? Trong thâm tâm, ta không thể giết hắn, thế nhưng - hắn thêm bằng vẻ đe dọa lạnh lùng - thế nhưng hắn chướng mắt ta lắm. Hắn đang ở đâu? - Trong phòng vợ tôi - Người ta đang băng bó cho hắn ở tầng gác một. - Quần áo và bọc hành lý vẫn ở chỗ hắn chứ! Hắn không rời chiếc áo chẽn chứ? - Trái lại, tất cả đều ở dưới bếp. Nhưng một khi tên nhãi rồ ấy làm phiền ngài... - Hẳn rồi. Hắn gây ra trong lữ quán của ông một vụ bê bối mà người tử tế không thể chịu nổi. Lên phòng ông đi, thanh toán mọi khoản cho ta, rồi bảo cho người hầu của ta. - Sao! Ngài rời khỏi chúng tôi à? - Ông thừa biết đấy, ta chẳng đã ra lệnh thắng yên ngựa của ta ư? Không tuân lệnh ta ư? - Quá chứ ạ! Như đại nhân có thể thấy đấy, ngựa của ngài ở dưới cửa chính, tất cả đã sẵn sàng để lên đường. - Tốt lắm, hãy làm cái việc ta đã bảo ông đi. "Lạ thật! - Chủ quán tự nhủ - Chả lẽ ông ta lại sợ thằng nhãi?". Nhưng một cái nhìn quyền thế của người lạ kia đã chặn đứng ngay chủ quán. Chủ quán khúm núm chào và đi ra. Người lạ tự bảo: - Không nên để Milady bị tên kỳ quặc kia bắt gặp. Thế nào nàng cũng sắp qua đây, vì lúc này coi như đã đến muộn. Tốt hơn là ta cứ lên ngựa đến đón gặp nàng trước. Giá như ta có thể biết bức thư gửi Treville nội dung thế nào? Con người này vừa làu bàu vừa đi về phía bếp. Trong khi đó, chủ quán tin rằng chính sự hiện diện của gã trai trẻ khiến người lạ mặt kia phải bỏ đi, ông ta liền đi tới phòng vờ mình và thấy D artagnan đã tỉnh lại. Thế rồi, ông ta giảng giải cho chàng hiểu rằng cảnh sát có thể gây phiền phức cho chàng vì chàng đã gây chuyện với một bậc đại thần, vì theo ý ông ta, người lạ mặt chỉ có thể là một vị đại thần, rồi ông ta thúc ép chàng dẫu còn yếu, cũng nên cố vùng dậy tiếp tụe cuộc hành trình. D Artagnan vẫn còn choáng váng, mình không áo chẽn, đầu quấn đầy băng, đứng lên, bị chủ quán vừa kéo vừa đẩy, đành bước xuống thang gác. Nhưng vừa xuống tới bếp, vật đầu tiên chàng trông thấy chính là kẻ đã khiêu khích chàng, hắn đang bình thản nói chuyện ở bậc lên xuống của một cỗ xe nặng thắng hai con ngựa lớn nòi Normande. Người đàn bà trò chuyện với hắn, đầu tựa như được viền trong khung cửa xe, là một phụ nữ từ hai mươi đến hăm hai tuổi. Chúng ta đã từng nói tới khả năng nắm bắt diện mạo nhanh nhạy của D artagnan, nên vừa thoạt nhìn, chàng đã thấy ngay người đàn bà trẻ đẹp. Mà cái sắc đẹp ấy lại hoàn toàn xa lạ ở cái xứ sở phương Nam nơi chàng vẫn sống, càng khiến chàng bị choáng. Đó là một phụ nữ, nước da trắng xanh, tóc hung vàng, xõa thành những chuỗi dài xuống hai vai, đôi mắt xanh to u hoài, đôi môi hồng và hai bàn tay như bạch ngọc. Nàng trò chuyện sôi nổi với người lạ kia. - Vậy, Đức ông lệnh cho tôi... - Người đàn bà nói. - Phải quay lại nước Anh ngay tức khắc và trực tiếp báo trước cho ngài (8 ) nếu Quận công (9) rời London. - Thế còn những chỉ thị khác cho tôi? - Khách lữ hành xinh đẹp hỏi. - Tất cả được bọc kín trong chiếc hộp này, và chỉ được mở khi đã ở bờ bên biển Măngsơ. - Rất tốt. Còn ông, ông làm gì? - Tôi, tôi trở lại Paris. - Không trị tội thằng nhãi con hỗn xược sao? - Người đàn bà hỏi. Người lạ định trả lời, nhưng vừa mở miệng, D Artagnan đã nghe thấy hết, lao mình tới ngưỡng cửa và hét lên: - Chính thằng nhãi hỗn xược mới trừng trị kẻ khác. Và ta hy vọng lần này kẻ mà thằng nhóc trừng trị sẽ không thoát khỏi như lần đầu. - Sẽ không thoát khỏi ư? - Người lạ cau mặt cau mày hỏi. - Không, trước một phụ nữ, ta cho là ông sẽ không dám trốn. Milady kêu to khi thấy nhà quý tộc để tay lên gươm: - Hãy nghĩ kỹ đã, hãy nghĩ, chậm một tý thôi có thể mất hết. - Nàng có lý - nhà quý tộc nói - Vậy nàng hãy đi theo con đường nàng. Ta đi đường ta. Và khẽ gật đầu chào người đàn bà, người đó nhảy phắt lên yên ngựa, người đánh xe của cỗ xe cũng quất mạnh đôi ngựa thắng. Hai bên đều phi nhanh về phía ngược nhau trên đường phố. - Này, còn tiền chi phí. - Chủ quán với gọi, lòng mến khách đối với người lạ đã chuyển thành sự khinh bỉ sâu sắc khi thấy hắn xa dần mà không thanh toán tiền trọ. - Trả đi, đồ đê tiện! - Người lạ mặt vừa phi ngựa vừa quát tên hầu. Tên này quăng xuống chân chủ quán vài ba đồng bạc rồi cùng phi theo chủ. D artagnan đến lượt mình cùng lao theo tên hầu và la: - A, đồ hèn! Đồ, khốn nạn! Quý tộc rởm. Nhưng người bị thương còn quá yếu không thể chịu nổi một cú lao mạnh như vậy. Mới được mươi bước, tai chàng đã ù, đầu hoa lên, máu như dồn lên mắt khiến chàng ngã lăn ra đường phố, nhưng miệng vẫn còn la: - Hèn! Hèn! Hèn! - Quả là hắn rất hèn! - Chủ quán vừa lẩm bẩm vừa tới gần D artagnan, cố nịnh bợ để làm lành với chàng trai tội nghiệp giống như con sếu với con ốc sên buổi tối trong chuyện ngụ ngôn(10). - Phải, quá hèn - D Artagnan lẩm bẩm - nhưng nàng, quá đẹp! - Ai, nàng nào? - Chủ quán hỏi. D Artagnan ấp úng: - Milady ấy. Rồi chàng lại ngất lần thứ hai. - Thế là hòa - Chủ quán nói - Ta mất hai, nhưng lại còn được tên này, mà ta tin chắc sẽ giữ lại được ít nhất mấy ngày. Vẫn cứ kiếm được mười một đồng vàng đi. Mười một đồng vàng vừa đúng là số tiền còn lại trong túi tiền của D Artagnan. Chủ quán đã tính theo mười một ngày bệnh, với giá một đồng vàng một ngày, nhưng tính vắng mặt khách trọ. Sáng hôm sau lúc năm giờ, D artagnan thức dậy, tự mình xuống bếp, yêu cầu cho chàng rượu vang, dầu, cây hương thảo, ngoài các vị thuốc khác ta không nắm được tên, và tay cầm đơn thuốc mẹ chàng cho, chế thành một loại cao, rồi xoa lên các vết thương đầy người, tự thay mới băng gạc và không muốn chấp nhận bất cứ thày thuốc nào giúp chữa. Chắc hẳn nhờ công dụng của loại cao Bôhêm và có lẽ cũng nhờ sự vắng mặt của mọi loại bác sĩ, ngay tối hôm ấy chàng đã tự đi lại được và hôm sau gần như khỏi hẳn. Nhưng lúc trả tiền cây hương thảo, dầu và rượu vang, khoản chi duy nhất của chủ, gần như tuyệt đối không ăn, thì ngược lại con nghẽo vàng, theo như chủ quán nói, ít ra cũng đã ăn gấp ba lần mức mà người ta coi như hợp lý so với tầm vóc của nó, D artagnan chỉ thấy trong túi áo mình cái túi đựng tiền bằng nhung đã sờn mười một đồng tiền vàng, còn phong thư ngài De Treville đã biến mất. Chàng trai trẻ kiên nhẫn tìm bức thư, lộn đi lộn lại đến hai mươi lần những túi áo lớn nhỏ, lục đi lục lại bọc hành lý, mở rồi lại đóng túi đựng tiền, nhưng khi tin chắc không thấy được nữa, lần thứ ba chàng lại rơi vào cơn điên giận suýt nữa lại một phen làm đi tong món dầu thơm và rượu vang. Bởi vì thấy cái đầu kẻ tồi tệ kia bốc nóng và đe dọa đập phá hết đồ nội thất nếu không tìm ra cho chàng bức thư, chủ quán đã vơ lấy một ngọn giáo, vợ y, cán chổi và lũ hầu bàn vẫn những đòn gậy đã sử dụng hôm trước. Bức thư tiến cử của ta! - D artagnan gào lên - Bức thư tiến cử của ta! Mẹ kiếp! Nếu không, ta sẽ xiên chả tất cả như nướng chim ngói cho mà xem! Khốn nỗi, một tình thế đã chống lại chàng trai trẻ, không cho chàng làm được điều đe dọa. Như đã nói, gươm của chàng từ trận đầu đã bị gãy làm đôi mà chàng đã hoàn toàn quên mất. Vì vậy, khi chàng muốn tuốt gươm, chàng chỉ thấy đơn giản trơ một mẩu gươm dài khoảng một gang tay mà chủ quán đã cẩn thận tra vào vỏ. Phần còn lại của lưỡi gươm, tay chủ quán đã khéo léo sửa thành một cái xiên nướng thịt. Song nỗi thất vọng đó chưa chắc đã ngăn nổi chàng trai hung hăng của chúng ta nếu như chủ quán không nghĩ việc người khách lạ đòi hỏi y là hoàn toàn chính đáng. Hắn hạ mũi giáo xuống hỏi: - Nhưng thật ra bức thư ấy ở đâu? - Phải, bức thư ấy ở đâu? - D artagnan hét - Trước hết ta báo cho ông biết, bức thư ấy là gửi cho ngài De Treville, và nó phải được tìm thấy. Hoặc nếu không tìm thấy, chính ngài sẽ biết cách tìm ra! Lời đe dọa khiến chủ quán hoảng sợ. Sau Nhà Vua và Giáo Chủ, ngài Treville là người tên tuổi luôn được nhắc đến nhiều nhất trong giới nhà binh và cả trong dân phố nữa. Hẳn là có Đức cha Jôdép nữa, nhưng tên ông không bao giờ được nhắc đến trừ phi thấy giọng thôi để cho thấy nỗi kinh hoàng mà Đức ông xám, kẻ thân cận của Giáo chủ được mệnh danh như vậy, gây ra thế nào. Thế là chủ quán vứt giáo, ra lệnh cho vợ mình và bọn gia nhân cũng làm theo, vứt hết gậy gộc, tự mình nêu gương cần mẫn đi tìm bức thư. Sau một hồi tìm kiếm không kết quả, chủ quán nói: - Bức thư đó có cái gì quý giá ư? Chàng Gátxcông vẫn trông mong bức thư sẽ mở đường cho chàng vào triều đình trả lời: - Ta tin chắc như vậy. Nó chứa đựng vận mệnh của ta. - Những ngân phiếu thanh toán ở Tây Ban Nha ư? - chủ quán lo lắng hỏi. - Những ngân phiếu trong ngân khố đặc biệt của Hoàng thượng - D artagnan đáp như vậy vì cho rằng nhờ bức thư tiến cử ấy chàng có thể vào phục vụ nhà Vua, câu trả lời có đôi chút mạo muội, nhưng không phải là dối trá. - Chết cha! - Chủ quán nói, hoàn toàn thất vọng. - Nhưng không sao! - D artagnan tiếp tục với vẻ bộc trực vốn có của dân xứ chàng - Không sao, tiền không là gì. Thư mới là tất cả, ta thà mất nghìn bạc còn hơn mất bức thư. Chàng chẳng ngại nói tới hai mươi nghìn, nhưng một sự e dè non trẻ nào đó đã ngăn chàng lại. Đầu óc chủ quán đang mụ mị đi vì không tìm thấy gì bỗng lóe lên một tia sáng và reo lên: - Bức thư không hề mất! - Hả! - D artagnan hỏi. - Không mất? Ai lấy? - Lão quý tộc hôm ấy. Lão đã xuống bếp nơi để chiếc áo chẽn của ông. Lão ở đấy có một mình. Tôi cuộc chính lão lấy cắp bức thư. - Ông tin vậy à? D artagnan chưa tin lắm hỏi lại. Chàng biết rõ hơn bất cứ ai tầm quan trọng hoàn toàn có tính chất cá nhân của bức thư, và không hề thấy ở bức thư cái gì có thể khêu gợi máu tham cả. Sự thể là bất kỳ lũ người hầu, hoặc khách trọ có mặt nào cũng sẽ chẳng kiếm được chút lợi lộc gì khi chiếm hữu tờ giấy đó. D artagnan tiếp: - Vậy ông nói ông ngờ lão quý tộc xấc xược ấy ư? - Tôi nói rằng tôi cam đoan như vậy. Khi tôi báo cho lão ta biết quý ông là người được ngài Treville bảo trợ và quý ông có bức thư gửi cho ngài quý tộc lẫy lừng đó, thì lão tỏ ra rất lo lắng, liền hỏi tôi bức thư đó ở đâu rồi lập tức đi xuống bếp, nơi lão biết có chiếc áo chẽn của quý ông. - Vậy, đó chính là tên kẻ cắp của ta rồi! - D artagnan đáp - Ta sẽ khiếu nại với ngài De Treville, và ngài sẽ khiếu nại chuyện này với Đức Vua. Nói rồi chàng oai vệ rút ra hai đồng tiền vàng đưa cho chủ quán. Chủ quán tay cầm mũ, tiễn chàng đến tận cửa. Chàng lại cưỡi lên con nghẽo màu vàng đi tới tận cổng ô Saint-Antoine ở Paris không gặp một tai họa khác nào. Đến đây chủ nó bán nó lấy ba đồng vàng, như vậy là với giá quá cao rồi, bởi D artagnan đã làm nó quá mệt trong đoạn đường cuối. Người lái ngựa mà D artagnan đã nhượng lại con nghẽo, trả giá ba đồng vàng không hề giấu giếm chàng trai trẻ là mình đã đưa ra cái giá quá đắt ấy chẳng qua chỉ vì màu lông độc đáo của nó. Vậy là D artagnan đi bộ vào Paris, tay xách một bọc nhỏ, cuốc bộ mãi tới khi tìm thuê được một phòng phù hợp với khoản tiền ít ỏi của mình. Gian phòng là loại phòng sát mái ở phố Phu đào huyệt, cạnh vườn Luychxămbua. Trả xong khoản tiền chùa (11), D Artagnan nhận phòng ở, suốt thời gian còn lại trong ngày, chàng ngồi khâu vào áo chẽn và quần nịt những mảnh ren viền mà mẹ chàng đã tháo từ chiếc áo chẽn hầu như còn mới của ông D artagnan bố, rồi giấu giếm đưa cho chàng. Tiếp đó chàng đến phố Thợ rèn đặt làm một lưỡi gươm, rồi trở lại điện Louvre hỏi thăm người lính ngự lâm đầu tiên chàng gặp, vị trí dinh quán của ngài De Treville, hóa ra ở ngay phố Chuồng chim câu cũ, nghĩa là đúng ngay cạnh phòng D artagnan tìm thuê: một cảnh ngộ có vẻ một sự mở đầu may mắn cho sự thành công của cuộc hành trình. Sau đó, hài lòng về cách ứng xử của mình ở thị trấn Măng, không chút hối hận về việc đã qua, tin vào hiện tại và tràn trề hy vọng trong tương lai, chàng đi nằm và ngủ giấc ngủ của một dũng sĩ. Giấc ngủ đầy chất tỉnh lẻ, kéo chàng đến tận chín giờ sáng, giờ chàng phải dậy để đến nhà ngài De Treville danh tiếng, nhân vật thứ ba của vương quốc theo sự đánh giá của bố chàng. Chú thích: (1) Măng: Thị trấn thuộc lưu vực sông Loa nước Pháp. ( Le Mans ) (2) Giáo phái Canvanh: Giáo phái do Han Canvanh làm Giáo chủ, một giáo phái Tin lành cải cách - phát triển mạnh ở Pháp và Thụy Sĩ, đã từng tổ chức một nưởc Cộng hòa Tin lành ở Giơnevơ (1509-1564) (3) Pháo thành La Rochelle: Thủ phủ của quận Chafente. Maritime, bên bờ Đại dương cách Paris về phía Tây Nam 470 km. (4) Màu cờ vàng và đỏ: Màu cờ Tây Ban Nha. (5) Đông Kihôtê: Nhân vật chính đồng thời cũng là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Cervatès nhà văn người Tây Ban Nha. (6) Cấm những cuộc quyết đấu: nhưng không có ý này trong nguyên bản cũng như bản tiếng Anh. (7) Tarbe - Thị trấn thuộc tỉnh Gascogne, quê hương của dòng họ D Artagnan - thuộc vùng Thượng Pyrenée. (8 ) Ý nói Giáo chủ Richelieu. (9) Quận công De Buckingham. (10) Truyện ngụ ngôn của La Fontaine - con sếu muốn thò mỏ vào trong cái vỏ cứng của ốc sên để ăn thịt nó. (11) Denier à Diedomné - tiển thu được ở trong chiếc đĩa của nhà thờ |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:46 | |
| Chương 51
Sĩ quan. Trong khi đó, Giáo chủ mong đợi những tin tức từ nước Anh nhưng chẳng thấy gì nếu không phải những tin tức gây bực mình hoặc hăm dọa. Cho dù La Rochelle có bị vây chặt và thành công có vẻ đã chắc trong tay nhờ những biện pháp phòng ngự và nhất là con đê, không cho bất cứ con thuyền nào lọt vào thành phố bị bao vây, thì cuộc vây hãm vẫn cứ phải kéo dài thêm nữa và đó là một nỗi nhục lớn đối các binh chủng của nhà Vua, một sự bực mình lớn đối với Giáo chủ khiến ông ta không thiết gây rắc rối giữa Louis XIII và Anne Autriche nữa, đúng vậy, vì chuyện đó đã xong rồi, mà phải hàn gắn mối bất hòa giữa ông Bassompirre với Quận công Angoulême. Còn Hoàng đệ, người mở đầu cuộc bao vây nay để mặc Giáo chủ lo việc hoàn tất. Thành phố, mặc dầu sự kiên gan không thể tưởng tượng nổi của viên thị trưởng, vẫn toan tính nổi loạn để đầu hàng. Viên thị trưởng đã cho treo cổ những kẻ bạo loạn. Việc hành hình đó đã làm dịu bớt những cái đầu bất trị nhất, họ quyết định thôi đành chết đói. Cái chết đó luôn có vẻ chậm chạp hơn và kém chắc chắn hơn cái chết bị treo cổ. Về phía mình, thỉnh thoảng quân vây thành lại bắt được những phái viên của quân Rochelle phái đến Buckingham hoặc những điệp viên mà Buckingham gửi tới cho quân Rochelle. Đối với cả loại này lẫn loại kia, bản án được đưa ra nhanh chóng. Giáo chủ chỉ nói mỗi một câu: Treo cổ! Người ta mời nhà Vua xem treo cổ. Nhà vua đến, người mệt lử, ngồi ở một chỗ tốt để xem rõ từng chi tiết việc hành quyết. Việc đó luôn làm Ngài khuây khỏa đôi chút và khiến Ngài kiên nhẫn hơn trong việc bao vây nhưng không ngăn nổi Ngài phiền muộn rất nhiều, và lúc nào cũng nói đến việc trở về Paris, thành thử nếu bọn phái viên và điệp viên không xuất hiện, thì Đức ông, mặc dù sức tưởng tượng phong phú của mình, cũng thấy rất lúng túng. Song, thời gian cứ trôi đi, quân Rochelle không đầu hàng. Tên gián điệp cuối cùng bị bắt là một kẻ mang một bức thư. Bức thư nói rõ với Buckingham là thành phố đã chịủ đựng đến cùng rồi, nhưng đáng lẽ thêm rằng: "Nếu việc cứu viện của ngài, trước mười lăm ngày nữa, không đến, chúng tôi sẽ đầu hàng" lại chỉ đơn giản như sau: "Nếu trong vòng mười lăm ngày việc cứu viện của ngài không tới, thì khi tới chúng tôi đã chết đói hết rồi?" - Vậy là quân Rochelle chỉ hy vọng vào Buckingham. Buckingham là chúa cứu thế của họ. Rõ ràng là nếu một ngày nào đó họ biết một cách chắc chắn rằng không nên trông cậy vào Buckingham nữa, thì lòng dũng cảm của họ sẽ rơi rụng cùng với hy vọng của họ. Cho nên Giáo chủ rất nóng lòng mong đợi những tin tức từ nước Anh đáng lẽ phải thông báo là Buckingham sẽ không đến nữa. Vấn đề chiếm thành phố bằng sức mạnh thường được tranh luận trong hội nghị của nhà Vua, luôn bị gạt bỏ. Trước hết vì La Rochelle có vẻ không thể đánh chiếm, rồi Giáo chủ, cho dù ông đã nói, ông biết thừa nỗi kinh hoàng vì máu đổ trong cuộc đối đầu này nơi người Pháp phải chiến đấu chống người Pháp, là một thoái trào chính trị tới sáu mươi năm. Mà Giáo chủ vào thời kỳ này lại được người ta gọi là một con người cấp tiến. Quả thật cuộc cướp phá thành La Rochelle và vụ tàn sát ba bốn nghìn người theo giáo phái Canvanh năm 1628 quá giống cuộc thảm sát Saint Báctêlêmy năm 1572(1), và rồi trên tất những cái đó cái thủ đoạn cực đoan mà nhà vua, một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo không ghê tay luôn bị thất bại trước lý lẽ của các tướng lĩnh vây thành: ngoài nạn đói ra, La Rochelle không thể nào bị chiếm. Giáo chủ không thể gạt ra khỏi trí não nỗi sợ mà người nữ mật sứ đáng sợ đã gieo vào, bởi ông, chính ông cũng hiểu sự mất cân bằng kỳ lạ, lúc là rắn lúc là sư tử của người đàn bà này. Mụ ta đã phản bội? Mụ chết rồi chăng? Dẫu sao ông cũng khá hiểu rõ mụ để biết rằng trong khi hành động cho ông hoặc chống lại ông, là bạn hay là thù của ông, mụ cũng không chịu im ắng như thế nếu không gặp những trở ngại lớn. Nhưng từ đâu ra những trở ngại ấy? Đó là điều ông chưa thể biết. Vả chăng, ông vẫn có lý do để trông cậy vào Milady, ông đã đoán ra trong quá khứ, người đàn bà ấy đã có những chuyện đáng sợ mà chỉ chiếc áo đỏ Giáo chủ của ông thôi mới có thể che đậy và ông cảm thấy rằng, vì một nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, người đàn bà đã thuộc về ông ấy chỉ có thể tìm thấy ở ông một chỗ dựa vượt lên trên mối nguy đang đe dọa mụ, vì vậy, ông quyết định tiến hành chiến tranh một mình mình và chỉ trong đợi vào mọi thành công còn xa lạ với ông như người ta trông đợi một vận may. Ông tiếp tục cho nâng cao thêm con đê nổi tiếng để làm đói La Rochelle, trong khi chờ đợi ông phóng mắt nhìn cái thành phố khốn khổ, chất chứa bao nỗi khốn cùng sâu xa cũng như bao đức tính anh hùng và nhớ đến câu nói của vua Louis XI, bậc tiền bối chính trị của ông, cũng như bản thân ông lại là bậc tiền bối của Rôbétxpie, ông lại nhớ câu châm ngôn của cha đỡ đầu của Trítxtăng(2) "chia để trị". Henri IV khi vây hãm Paris đã cho ném qua tường thành bánh mì và thực phẩm. Ở đây Giáo chủ cho ném truyền đơn vào trong đó trình bầy cho dân Rochelle rõ cách đối xử bất công ích kỷ, dã man của bọn chỉ huy, bọn chỉ huy thừa mứa lúa mì mà không đem chia cho họ, bọn chúng áp dụng phương châm ấy, bởi chính bọn chúng cũng có những phương châm, rằng phụ nữ, trẻ con và người già có chết cũng chẳng sao, miễn là đàn ông bảo vệ thành lũy thì phải sống khỏe mạnh và được ăn mặc đầy đủ. Cho đến lúc này, do vì nghĩa vụ hoặc do bất lực không phản ứng lại được, cái phương châm đó không được chấp nhận về đại thể, tuy nhiên đã chuyển từ lý thuyết thành thực hành. Nhưng những tờ truyền đơn bay tới cũng có tác dụng công kích. Những truyền đơn nhắc nhở những người đàn ông rằng trẻ con, đàn bà, người già bị bỏ chết ấy chính là con cái họ, vợ họ và cha họ, rằng sẽ công bằng hơn nếu mỗi người đều chịu chung cảnh khốn cùng, có cùng chung cảnh ngộ thì mới có được những quyết định thống nhất. Những tờ truyền đơn đó đã phát huy hiệu quả mà những người viết ra có thể trông đợi. Một số đông cư dân đã quyết định mở những cuộc thương lượng riêng với quân đội nhà Vua. Nhưng đúng lúc Giáo chủ thấy phương sách của mình đã có hiệu quả và lấy làm mừng vì đã áp dụng phương sách đó thì một cư dân của La Rochelle đã có thể vượt qua những phòng tuyến quân đội hoàng gia như thế nào có trời mới biết, dù cho những kiểm soát gắt gao của các ông Bassompirre, De Xkombéc, Công tước Ănggulêm, và rồi chính họ lại bị Giáo chủ giám sát, một cư dân ở La Rochelle đến từ cảng Portsmouth và nói rằng, trước đây tám ngày thấy một hạm đội hùng hậu sẫn sàng giương buồm. Thêm nữa, Buckingham đã thông báo cho ông thị trưởng rằng một liên minh to lớn chống nước Pháp sắp sửa ra mắt, và vương quốc Pháp sắp bị quân Anh, Tây Ban Nha và đế quốc Áo xâm lược. Bức thông điệp được đọc công khai trên tất cả các quảng trường, các bản sao được dán ở các góc phố, và ngay những người đã bắt đầu mở những cuộc thương lượng cũng đình lại, quyết định chờ cứu viện như đã được huyênh hoang công bố. Tình thế bất ngờ đó khiến cho Richelieu bắt đầu lo lắng, buộc ông bất đắc dĩ phải quay mặt nhìn về phía bên kia bờ biển. Trong khi đó, bất chấp những lo lắng của vị chỉ huy đích thực và duy nhất, binh lính quân đội nhà vua vẫn sống vui tươi, thực phẩm không thiếu ở doanh trại, tiền bạc cũng vậy, mọi đơn vị đối đầu nhau xem ai gan dạ và vui chơi thỏa thích hơn ai. Bắt gián điệp và đem treo cổ, tiến hành đột kích trên đê hay trên biển, tưởng tượng ra những trò rồ dại rồi thực hiện một cách lạnh lùng, đó là những trò giết thì giờ để tìm cách rút ngắn thời gian trong quân ngũ quá dài, còn quá dài chẳng những với dân Rochelle đang bị nạn đói và nỗi lo âu gậm nhấm mà cả với Giáo chủ đang vây hãm họ rất ác liệt. Đôi khi, khi Giáo chủ cưỡi trên lưng ngựa như một gã cảnh sát quân sự cuối cùng của quân đội, đưa con mắt đăm chiêu nhìn những công trình mà ông đã ra lệnh huy động các kỹ sư của khắp nước Pháp đến đây để tôn cao lên, lại diễn ra quá chậm trễ không theo mong muốn của ông, nếu khi đó, gặp một lính ngự lâm của đại đội ông De Treville, ông liền lại gần, nhìn người đó một cách lạ thường, và nếu nhận ra đó không phải là một trong bốn người bạn, ông lại để con mắt thâm trầm và ý nghĩ mung lung hướng về nơi khác. Một hôm, không còn hy vọng vào những cuộc điều đình với thành phố, không chút tin tức gì từ nước Anh, bị nỗi phiền muộn chết người gậm nhấm, Giáo chủ đi ra ngoài không có mục đích nào khác là chỉ để ra ngoài, cùng đi chỉ có Cahuxắc và Lahuđinie. Ông đi dọc theo bờ cát và hòa trộn những giấc mơ bao la của mình vào sự bao la của đại dương. Ông thong thả cho ngựa đi bước một lên một ngọn đồi, trên đỉnh đồi đằng sau một hàng giậu, ông bắt gặp bẩy người, xung quanh là những chai rượu rỗng, nằm dài trên cát đón những tia nắng mặt trời hiếm hoi trong tiết mùa đông này. Bốn người trong số đó là bốn chàng ngự lâm quân đang chuẩn bị nghe đọc một bức thư mà trong người trong bọn họ vừa nhận được. Bức thư này rất quan trọng đến nỗi nó làm cho họ bỏ mặc cả những lá bài và quân xúc xắc trên mặt trống. Ba người khác lo việc mở nắp một bình rượu vang Côkina khổng lồ. Đó là mấy người hầu của mấy người kia. Giáo chủ đang u sầu, và trong tâm trạng ấy, không gì làm tăng gấp bội nỗi bực tức bằng sự vui tươi của những người khác. Vả lại, ông vốn có một thiên kiến kỳ quái, đó là luôn tin rằng chính nỗi buồn của ông là nguyên nhân làm cho những kẻ khác vui thích. Ra hiệu cho La Huđinie và Cahuxắc dừng lại, ông xuống ngựa lại gần những kẻ cười cợt đáng ngờ, hy vọng nhờ đi trên cát, nên tiếng bước chân không bị nghe thấy và hàng giậu che khuất ông đi đến, ông có thể nghe được vài câu của cuộc chuyện trò này đối với ông có vẻ rất thú vị. Đến cách hàng giậu chỉ mươi bước ông đã nhận ra giọng thổ ngữ Gascogne, và vì đã biết những người này đều là ngự lâm quân, ông chẳng còn ngờ gì nữa là ba người kia là những người mà người ta gọi là ba chàng nối khố, nghĩa là Athos, Porthos, Aramis. Việc phát hiện ra mấy chàng này chỉ làm Giáo chủ tăng thêm ham muốn được nghe thấy cuộc trò chuyện. Đôi mắt ông lạ hẳn đi, với bước chân của loài mèo rừng ông tiến đến bờ giậu nhưng ông chỉ vừa nghe thấy những âm tiết mơ hồ, không có nghĩa nào rõ rệt, thì một tiếng kêu thất thanh làm ông giật bắn mình và khiến mấy chàng ngự lâm chú ý. - Sĩ quan! - Grimaud kêu váng lên. - Ai cho anh nói? Đồ khốn! - Athos chống tay nhổm dậy nhìn Grimaud bằng con mắt nảy lừa làm anh ta ngẩn ra. Grimaud không nói thêm một lời nào nữa, đành chỉ tay về phía hàng giậu phát giác Giáo chủ và tùy tùng. Bốn chàng ngự lâm chồm ngay dậy và đứng nghiêm chào kính cẩn. Giáo chủ hình như có vẻ giận dữ. Ông nói: - Hình như các vị ngự lâm quân bố trí những người này canh phòng cho mình? Phải chăng bọn Anh đến bằng đường bộ, hay các ông ngự lâm quân tự coi mình là sĩ quan cao cấp? - Thưa Đức ông - Athos trả lời, bởi giữa lúc tất cả cùng hoảng sợ, chỉ còn mỗi mình chàng là vẫn giữ được tính điềm đạm và thản nhiên của một bậc đại lãnh chúa không bao giờ thiếu được ở chàng - Thưa Đức ông, những người lính ngự lâm khi không bận làm nhiệm vụ hoặc khi đã làm xong nhiệm vụ, họ uống rượu và chơi xúc xắc và họ là những sĩ quan rất cao cấp đối với những người hầu của họ. - Những người hầu! - Giáo chủ càu nhàu - những người hầu được lệnh báo cho chủ mình khi có ai đó đi qua, đó không hề là những người hầu, đó là những tên lính gác. - Tuy nhiên Đức ông thấy quá rõ, nếu không đề phòng trước như vậy, thì chúng tôi đã để ngài đi qua mà không được bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn vì ngài đã ban cho chúng tôi được xum họp cùng nhau - Athos tiếp tục - D Artagnan, vừa nãy, anh vẫn mong có dịp bày tỏ lòng biết ơn với Đức ông, giờ Đức ông đã đến đây, hãy lợi dụng cơ hội này đi. Athos nói ra những câu ấy với vẻ thản nhiên bình lặng thường làm tôn bật chàng lên trong những giờ phút hiểm nguy và sự lễ độ thái quá ấy đôi lúc thường làm chàng như một ông vua còn đường bệ hơn cả những ông vua dòng dõi. D Artagnan lại gần và ấp úng mấy câu cám ơn rồi tịt mất trước cái nhìn sa sầm lại của Giáo chủ. Giáo chủ không tỏ ra bị lạc hướng ý đồ ban đầu của mình bởi sự phá bĩnh của Athos nêu lên, liền tiếp tục: - Không sao, các vị, không sao, ta chỉ không thích thấy những gã mới là lính thôi, bởi thấy mình hơn người, được phục vụ trong một đơn vị được biệt đãi lại làm ra vẻ các đại lãnh chúa như thế và kỷ luật thì đối với họ cũng vẫn là kỷ luật chung cho mọi người. Athos để cho Giáo chủ nói xong xuôi, liền nghiêng đầu tỏ vẻ đồng tình, đến lượt mình nói tiếp: - Kỷ luật, thưa Đức ông, tôi hy vọng, bất cứ mặt nào, chúng tôi cũng không sao lãng. Chúng tôi chưa được giao nhiệm vụ và chúng tôi nghĩ rằng, vì không làm nhiệm vụ, chúng tôi có thể bố trí thời gian sao cho tốt nhất với mình. Nếu như có đôi chút may mắn được Đức ông trao cho một mệnh lệnh đặc biệt nào đó, chúng tôi sẵn sàng tuân lệnh ngay - Athos vừa tiếp tục nói vừa cau mày lại bởi cái lối thẩm vấn đó bắt đầu làm chàng cáu bực - Đức ông cũng thấy, để sẵn sàng, kể cả trước những báo động nhỏ nhất, chúng tôi đã ra ngoài không rời vũ khí. Và chàng chỉ cho Giáo chủ bốn khẩu hỏa mai bó lại bên cái trống, trên trống lăn lóc quân xúc xắc và quân bài. - Mong Đức ông tin rằng - D Artagnan nói thêm - chúng tôi đâu có cho rằng Đức ông lại đến với chúng tôi bằng một đoàn bé nhỏ như thế này, nếu biết thế chúng tôi đã ra nghênh đón trước ngài rồi. Giáo chủ cắn ria mép rồi cắn môi, nói: - Các ông có biết giống ai không, luôn luôn tụ họp, như bây giờ đây này, vũ khí trong tay, người hầu canh phòng, các ông giống như bốn kẻ đồng mưu. - Ồ! Về việc này, thưa Đức ông, đúng là như vậy - Athos nói - Chúng tôi đang mưu tính, như Đức ông có thể thấy buổi sáng hôm nào đó, chỉ để chống lại bọn Rochelle. - Này, các nhà chính trị!- Giáo chủ đển lượt mình cũng cau mày lại nói tiếp - có lẽ người ta sẽ tìm thấy trong đầu các ông biết bao điều bí mật còn chưa được biết, nếu như người ta có thể đọc được ở trong đó như các ông đọc trong bức thư mà các ông đã giấu đi khi thấy ta đến. Mặt Athos đỏ bừng lên, chàng bước một bước tiến lại gần Giáo chủ. - Thưa Đức ông, ngài nghi ngờ chúng tôi thực mất rồi, và chúng tôi đang phải chịu một cuộc thẩm vấn đích thực. Nếu đã như vậy, xin Đức ông hạ cố giải thích cho để ít nhất chúng tôi cũng biết cách xử sự. - Và khi nào đây là một cuộc thẩm vấn - Giáo chủ nói tiếp - thì là những kẻ khác chứ không phải các ông phải chịu thẩm vấn và phải trả lời, ông Athos ạ. - Thế cho nên, thưa Đức ông, tôi đã chẳng nói với Đức ông là ngài cứ việc hỏi và chúng tôi sẵn sàng trả lời là gì. - Bức thư mà các ông định đọc là bức thư gì, mà ông đã giấu đó, ông Aramis? - Thưa Đức ông, thư đàn bà. - Ồ ta hiểu - Giáo chủ nói - những loại thư ấy thì phải kín đáo rồi. Nhưng tuy nhiên người ta có thể đưa cho cha xưng tội xem, và ông biết đấy, ta có quyền ấy. - Thưa Đức ông - Athos nói với một vẻ bình thản còn đáng sợ hơn cả việc mình đem đầu ra đặt vào câu trả lời này - bức thư đó là của một người đàn bà nhưng không ký tên Marion Delorme, cũng không ký tiểu thư De Eghiông(3). Giáo chủ tái mặt lại như da người chết, một tia mắt thú dữ lóe lên trong mắt ông, ông quay phắt lại như thể ra lệnh cho Cahuxắc và La Huđinie, Athos thấy động thái độ liền bước lại ngay chỗ để súng. Ba người kia mắt cũng chăm chăm nhìn súng ở tư thế không chịu để bị bắt giữ. Về phía giáo chủ, ông chỉ có ba. Ngự lâm quân kể cả người hầu là bẩy. Giáo chủ nghĩ ngay, dù Athos và đồng bọn có âm mưu thực sự thì vẫn cứ không cân sức, ông lật ngược ngay tình thế và ông vẫn luôn luôn như thế, mọi sự tức giận tan biến thành một nụ cười. - Thôi nào, thôi nào! - Ông nói - Các ông là những chàng trai trẻ can trường, kiêu hãnh trước mặt trời, chung thủy trong bóng tối, chẳng có điều gì xấu khi chăm lo cho mình, sau khi đã chăm lo đầy đủ cho người khác. Các ông ạ, ta không hề quên cái đêm mà các ông đã hộ tống ta đến quán Chuồng chim câu Đỏ. Nếu như có điều gì nguy hiểm đáng sợ trên con đường ta sắp đi đây, ta sẽ yêu cầu các ông đi cùng ta, nhưng vì không có chuyện gì, các ông cứ việc ở lại, uống nốt những chai rượu, chơi nốt ván bài và đọc xong bức thư đi. Tạm biệt các ông. Rồi, nhảy lên lưng con ngựa Cahuxắc vừa dắt đến, ông giơ tay chào mọi người và đi mất. Mọi người nhìn nhau. Ai nấy mặt mũi đều bàng hoàng bởi mặc dầu bề ngoài chào thân thiện, nhưng tất cả đều hiểu trong lòng, Giáo chủ điên lên lúc ra đi. Chỉ mỗi Athos là mỉm cười, một nụ cười mạnh mẽ và khinh thị. Khi Giáo chủ đã ra khỏi tầm nhìn và tầm nghe, Porthos nói to: - Cái thằng Grimaud này báo chậm quá! - Porthos muốn trút nỗi bực bội lên một ai đó. Grimaud định trả lời để bào chữa, Athos giơ ngón tay lên và Grimaud im mất. D Artagnan hỏi: - Aramis, anh định đưa bức thư à? - Mình ư, - Aramis nói bằng một giọng véo von - mình đã quyết định nếu ông ta cứ nằng nặc đòi đưa cho ông ta bức thư, thì một tay mình đưa thư, tay kia mình sẽ đưa gươm của mình xuyên qua người ông ta. - Mình cũng nghĩ y như vậy - Athos nói - Vì vậy mà mình đã lao vào ngăn giữa cậu và ông ta. Thật ra, con người đó ăn nói như thế với người khác là quá dại. Nghe nói bao giờ ông ta cũng chỉ gây chuyện với đàn bà và trẻ con. - Anh Athos thân mến - D Artagnan nói - Tôi phục anh đấy. Nhưng rút cuộc, chúng ta cũng sai đấy. - Sao, sai ư? - Athos nói - Vậy cái không khí mà chúng ta thở này là của ai? Của ai cái đại dương mà tầm mắt của chúng ta trải ra xa tắp? Lớp cát chúng ta nằm này là của ai? Bức thư của người tình của cậu này là gửi cho ai? Của Giáo chủ hẳn? Mình thề là cái con người đó cứ tưởng cả thế giới này đều thuộc về mình. Cậu đứng đó, ấp úng, hoang mang, kinh hồn. Làm như Bastille lù lù trước mắt cậu và nữ thần khổng lồ Mêđuydơ(4) biến cậu thành đá. Xem nào, si tình mà lại là âm mưu ư? Cậu si mê một người đàn bà mà Giáo chủ đã cho giam lại, cậu muốn kéo nàng ra khỏi bàn tay của Giáo chủ. Đây là một canh bạc cậu chơi với Đức ông. Bức thư đó, là nước bài của cậu. Tại sao cậu lại phô nước bài của mình ra cho đối phương? Không thể làm thế được ông ta cứ việc đoán, tốt thôi. Chúng ta cũng đoán nước bài của ông ta - Suy đến cùng - D Artagnan nói - Athos ạ, những điều anh vừa nói mang nhiều ý nghĩa lắm. Đã vậy thì không còn vấn đề vừa xảy ra nữa, và Aramis đọc tiếp bức thư của cô em họ mà Giáo chủ làm đứt đoạn đi. Aramis rút bức thư từ trong túi ra, ba người bạn chụm lại và ba người hầu cũng lại quây vào bên cái bình rượu. - Anh mới đọc được một vài dòng thôi - D Artagnan nói - Anh đọc lại từ đầu đi. - Xin sẵn sàng! - Aramis nói. "Anh họ thân mến, em tin thế nào em cũng sẽ đi Xtơnay nơi chị em đã đưa cô hầu gái bé nhỏ của chúng ta vào ở trong tu viện của những nữ tu sĩ thuộc giáo phái Cácme(5). Cô bé tội nghiệp đó phải cam chịu, nó biết rằng nó không thể sống ở nơi nào khác mà sự cứu rỗi linh hồn nó không bị nguy hiểm. Tuy nhiên nếu những công việc trong gia đình chúng em được thu xếp ổn thỏa như chúng em mong muốn, em tin rằng cô bé thoát khỏi nguy cơ gánh kiếp đọa đày, sẽ được trở lại bên những người cô bé nhớ tiếc, nhất là nó lại biết người ta luôn nghĩ đến nó. Trong khi chờ đợi cô bé cũng không đến nỗi khốn khổ lắm đâu. Tất cả những gì nó mong ước đó là một bức thư của người hẹn ước. Em biết những loại vật phẩm như thế rất khó vượt qua lưới sắt. Nhưng rút cục như em đã cho anh những bằng chứng, anh họ thân mến, em không đến nỗi quá vụng về và em sẽ đảm nhiệm việc đó. Chị em cảm ơn anh về kỷ niệm tốt và vĩnh hằng của anh. Có lúc chị em cũng rất lo lắng. Nhưng cuối cùng bây giờ chị ấy cũng đã đôi chút yên tâm và đã phái người tới đó để không xảy ra một điều gì bất ngờ. Tạm biệt, anh họ thân mến, cho chúng em biết tin tức về anh càng thường xuyên càng tốt, nghĩa là bất cứ lúc nào mà anh tin có thể gửi đi chắc chắn. Hôn anh. Marie Mítsông - Ôi! Aramis! Tôi phải chịu ơn anh nhiều lắm! - D Artagnan kêu lên - Constance yêu dấu! Thế là ta cũng đã có được tin tức của em rồi. Em còn sống. Em được an toàn trong một tu viện, em ở Xtơnay? Xtơnay ở đâu anh Athos? - Ở Loren, cách vùng biên giới Andátx mấy dặm. Một khi cuộc vây hãm này được rỡ bỏ, chúng ta có thể làm một chuyến đến đấy. - Cũng không lâu đâu, phải hy vọng thế - Porthos nói - Bởi sáng nay đã treo cổ một tên gián điệp, tên này khai bọn Rochelle đã phải ăn cả da giầy. Giả dụ sau khi ăn hết da, chúng phải ăn đến đế giầy, rồi hết đế thì còn gì để ăn, trừ phi chúng ăn lẫn nhau. - Những kẻ dại dột đáng thương - Athos và nói vừa uống cạn cốc rượu vang Boócđô trứ danh, hồi đó còn chưa nổi tiếng như ngày nay, nhưng không phải hạng xoàng - Những kẻ dại dột đáng thương! Làm như Cơ đốc giáo không phải là thứ tôn giáo lợi lộc nhất và dễ chịu nhất trong các tôn giáo ấy? Mà cũng thế thôi - chàng chặc lưỡi nói tiếp - Đó là những chàng trai trẻ can trường. Mà cậu làm cái quái gì thế hả Aramis? - Athos tiếp tục - cậu khư khư ôm lấy cái thư trong túi cậu ư? - Phải đấy - D Artagnan nói - anh Athos nói đúng đấy, phải đốt đi thôi. Phải đốt đi đốt lại ấy, ai biết đâu nhỡ Giáo chủ có bí quyết hỏi cung được tàn tro? - Ông ta hẳn là có đấy - Aramis nói - Vậy anh định làm thế nào bức thư ấy? - Porthos hỏi. - Lại đây, Grimaud - Athos nói. Grimaud đứng lên và tuân lệnh. - Để phạt ngươi tội nói không xin phép, anh bạn ạ, ngươi phải nuốt mẩu giấy này, rồi để thưởng cho ngươi đã giúp chúng ta một việc tốt, ngươi hãy uống tiếp cốc rượu vang này. Bức thư đây nhai thật kỹ vào. Grimaud mỉm cười, đôi mắt dán vào chiếc cốc mà Athos vừa rót đầy tràn, gã nghiền nát mẩu giấy và nuốt chửng. - Hoan hô, thầy Grimaud - Athos nói - Và bây giờ cầm lấy cốc rượu này. Tốt lắm, không cần cám ơn đâu. Grimaud lặng lẽ uống cốc vang Boócđô nhưng mắt lại ngước lên trời nói bằng thứ ngôn ngữ như thể người câm nhưng không kém biểu cảm trong cả quãng thời gian kéo dài cái việc làm dễ chịu này. - Và bây giờ - Athos nói - trừ phi ngài Giáo chủ nghĩ ra chuyện mổ bụng Grimaud, còn thì tôi tin chúng ta có thể yên tâm được rồi. Trong khi đó, Giáo chủ đang tiếp tục cuộc dạo chơi u trầm, miệng lẩm bẩm giữa hai hàng ria: - Dứt khoát, bốn con người ấy phải thuộc về ta. Chú thích: (1) Vụ thảm sát những giáo đồ Tin lành dưới triều vua Charles IX theo sự thúc ép của mẹ là Catherine de Medicis đêm 23 tháng 8 năm 1572 và hôm sau là lễ cưới của Henri de Navarre (sau này trở thành Hanri IV, bố của Louis XIII) với Marguerite, em gái Vua Charles IX. Vua Charles IX trước đòi hỏi của mẹ mình đã trả lời: "Mẹ muốn vậy à? … thì giết, nhưng giết tất!". "Tất" đây ý nói cả Henri de Navarre, nhưng vì tuyên thệ bỏ đạo nên được tha chết. Hậu quả vụ thảm sát là cuộc nội chiến thứ 5. (2) Tristan L Hermite: Hiến binh của các thống chế Pháp (như chánh cảnh sát) thời Henri VII và Louis XI - Tàn bạo, bất chấp các nguyên tắc công lý - Cha đỡ đầu của Tristan đây ý nói là Vua Louis XI (3) Marion Delorme- một phụ nữ nổi tiếng về sắc đẹp và những cuộc phiêu lưu tình ái (1611-1659) - Vị Hygo đã viết một vở kịch thơ cùng tên Nữ Công tước D aguillon - tên đầy đủ: Marie Madeleine De Vignerot, cháu gái của Richelieu (1604-1675). Người ta đồn cả hai đều là người tình của Richelieu (4) Mêđuydơ - một trong ba nữ quái, đẹp hiếm có, có bộ tóc đẹp lộng lẫy, đã xúc phạm nữ thần Minécvơ. Nữ thần tức giận đã biến tóc mụ thành những đàn rắn, và mắt mụ nhìn ai người ấy hóa đá. Pécsê đã chém đầu mụ mang theo cuộc viễn chinh để dọa kẻ thù (5) Giáo phái của những tu sĩ khất thực ở Palestine, thế kỷ 12, du nhập vào Pháp dưới triều Louis IX |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:46 | |
| Chương 52
Ngày đầu tiên trong cảnh giam cầm.
Trở lại chuyện Milady, nàng vẫn trong tình trạng tuyệt vọng, tự đào cho mình một vực thẳm của những ý nghĩ tối tăm, một địa ngục tối tăm mà nàng đã hầu như bỏ lại niềm hy vọng ở cửa, bởi đây là lần đầu tiên nàng hoài nghi, lần đầu tiên nàng biết sợ. Cả hai trường hợp, nàng đều không gặp may, cả hai trường hợp nàng đều bị phát hiện và bị phản bội, và cả hai trường hợp nàng đều thất bại chống lại thần định mệnh chắc hẳn do Thượng đế sai xuống để đánh nàng. D Artagnan đã thắng nàng, kẻ đại diện cho sức mạnh vô địch của cái ác. Chàng đã lợi dụng nàng trong tình yêu, làm nhục niềm kiêu hãnh, lừa dối nàng trong tham vọng của nàng và giờ đây, chàng làm cho số phận nàng nguy khốn, tước đoạt tự do của nàng, đe dọa cả mạng sống của nàng. Nhưng, tệ hơn nữa, chàng đã lột bỏ một phần cái mặt nạ của nàng, là tấm da dê nàng quấn quanh người khiến nàng mạnh đến thế. D Artagnan đã làm cho Buckingham, người mà nàng căm ghét như thể căm ghét tất cả những gì mình đã từng yêu, thoát khỏi cơn bão táp mà Richelieu uy hiếp ông ta thông qua Hoàng Hậu. D Artagnan vờ giả làm De Wardes, người mà nàng đã có một cơn giở chứng của loài hổ cái bất trị mà những người đàn bà có cùng tính cách thường làm như vậy. D Artagnan đã biết được cái điều bí mật mà nàng đã thề không ai biết nổi nếu không bị chết. Cuối cùng, lúc nàng có được tờ giấy toàn quyền hành động, nhờ nó nàng có thể báo thù, tờ giấy đó lại bị giật mất khỏi tay và chính D Artagnan là người cầm tù nàng và đẩy nàng đến một vịnh Botany(1) không dấu chân người, một thứ Thaibơn(2) nhục nhã nào đó ở Ấn Độ Dương. Chắc chắn tất cả những gì xảy ra với nàng đó đều do D Artagnan mà ra cả. Do ai mà bao nhiêu nỗi hổ nhục chồng chất lên đầu nàng nếu không phải hắn? Chỉ có hắn mới có thể chuyển cho Huân tước De Winter tất cả những bí mật kinh khủng hắn đã lần lượt phát hiện ra do định mệnh. Hắn quen biết em chồng nàng. Hắn đã viết cho kẻ kia tất cả. Biết bao căm hờn nàng nghiền ngẫm! Ngồi đó, bất động, đôi mắt chăm chăm, cháy bỏng trong căn phòng hoang vắng, như những âm vang của những tiếng gầm khan đôi khi thoát ra cùng hơi thở từ sâu trong ngực, hòa cùng với tiếng sóng đang dâng, đang gào thét, gầm rú rồi tới đập vào bờ đá, trên đó là tòa lâu đài u ám và kiêu ngạo, vỡ tan ra như một sự tuyệt vọng vĩnh cửu và bất lực. Trong những ánh chớp của cơn điên giận giông bão làm lóe sáng trí não nàng, nàng thai nghén những dự định trả thù đồ sộ chống lại bà Bonacieux, Buckingham, nhất là D Artagnan, nhưng rồi tất cả đều mất tăm mất tích trong cái xa xôi vô tận của tương lai! Đúng, nhưng để trả thù phải được tự do đã, và để được tự do khi là một tù nhân thì phải đục tường, bẻ song sất, khoét sàn, với sự quyết tâm chỉ những người đàn ông kiên trì và khỏe mạnh mới có thể đẩy đến cùng, còn trước những cái đó thì sự giận dữ của một người đàn bà mảnh mai chỉ có thất bại. Vả lại, để làm được mọi điều đó, cần phải có thời gian, năm tháng, và nàng… nàng chỉ có mười đến mười hai ngày, như De Winter, tên em chồng đao phủ khủng khiếp kia đã nói với nàng. Và trong khi đó, nếu nàng là một người đàn ông, nàng sẽ thử làm mọi việc ấy, biết đâu lại chẳng thành công. Tại sao ông trời lại nhầm lẫn đặt một linh hồn nam tử vào tấm thân mềm yểu và mảnh mai như vậy. Vì thế, những khoảnh khắc đầu tiên của cảnh giam cầm thật là khủng khiếp. Mấy cơn vùng vẫy điên cuồng mà nàng không thể vượt qua đã trả giá cho món nợ của thân phận đàn bà đối với tạo hóa. Nhưng dần dần nàng đã vượt qua được những tiếng nổ của cơn điên giận, những cơn điên giận run người cũng biến mất và giờ đây nàng thu mình lại như một con rắn mệt mỏi cần nghỉ ngơi. "Thôi đi, thôi đi, ta điên nên mới nổi nóng như thế - Nàng vừa tự nhủ vừa soi gương, trong gương một cái nhìn rực cháy như thể nàng đang tự bảo mình - Không dùng bạo lực nữa. Bạo lực là bằng chứng của sự yếu đuối. Trước hết ta chưa bao giờ thành công được bằng phương thức ấy. Có lẽ nếu ta dùng sức mạnh của ta chống lại đàn bà, may ra ta thấy họ còn yếu hơn ta, do đó ta thắng họ. Nhưng đấu tranh chống lại đàn ông, ta chỉ là một người đàn bà đối với họ. Vậy đấu tranh với tư cách đàn bà, sức mạnh của ta là ở trong sự yếu đuối của ta". Thế là, như để kiểm tra xem liệu mình có thể làm biến đổi được bộ mặt rất biểu cảm, rất linh hoạt không, nàng liền lần lượt sắm đủ các vai, từ nét mặt giận dữ cau có mặt mày đến nét mặt dịu hiền nhất, đáng yêu nhất, và nụ cười quyến rũ nhất. Rồi mớ tóc nàng được đôi tay khéo léo lần lượt uốn thành những búp sóng mà nàng tin có thể làm cho bộ mặt mình thêm duyên dáng. Cuối cùng nàng thấy tự thỏa mãn và lẩm bẩm: "Ồ, chẳng bị mất đi cái gì cả. Ta vẫn luôn luôn đẹp". Lúc đó đã gần tám giờ tối, Milady thấy có cái giường. Nàng nghĩ nghỉ ngơi mấy tiếng đồng hồ sẽ làm dịu mát không những cái đầu và ý nghĩ của mình và còn cả da dẻ mình nữa. Tuy nhiên, trước khi đi nằm, một ý nghĩ rất tuyệt chợt đến với nàng. Nàng đã nghe nói đến việc ăn tối. Nàng đã ở trong cái buồng này được một tiếng đồng hồ, người ta không thể chậm trễ mang cơm cho nàng. Nữ tù nhân không muốn mất thời gian, nàng quyết định ngay tối nay thử thăm dò địa thế, nghiên cứu tính cách những con người được giao nhiệm vụ canh giác ở đây. Một luồng sáng hiện ra dưới chân cửa, báo hiệu bọn cai ngục đang trở lại, Milady đang đứng vội gieo mình xuống chiếc ghế bành, đầu ngả ra sau, bộ tóc đẹp xõa tung, bộ ngực trần phơi ra một nửa dưới những nếp ren nhàu nát, một tay đặt lên ngực trái và tay kia thõng xuống. Người ta mở chốt cửa, bản lề rít lên kin kít, tiếng bước chân rầm rập trong phòng và lại gần. - Đặt trên chiếc bàn này - Một giọng nói cất lên và người nữ tù nhân nhận ra giọng nói của Felten. Lệnh được thi hành ngay, Felten tiếp tục: - Anh mang mấy ngọn nến vào rồi đổi gác đi. - Cái lệnh kép mà viên trung úy trẻ ban ra cho vẫn cùng một người chứng tỏ với Milady rằng những người phục vụ và những người canh gác vẫn chỉ là một, nghĩa là lính cả. Mệnh lệnh của Felten được thi hành mau lẹ và lặng lẽ, chứng tỏ viên trung úy duy trì kỷ luật rất tốt. Cuối cùng thì Felten, còn chưa ngó tới Milady, đã quay lại phía nàng: - À! - Felten nói - Bà ta ngủ, thôi được, thức dậy, bà ta sẽ ăn tối! - Và chàng ta bước mấy bước định đi ra. - Nhưng, thưa trung úy! - Một người lính có lẽ đỡ nghiệt ngã hơn chỉ huy của mình, lại gần Milady - Bà ta không ngủ đâu. - Sao, bà ta không ngủ! - Felten nói - Vậy bà ta làm gì? - Bà ta ngất, mặt rất xanh và tôi đã nghe hoài không thấy thở. - Anh nói đúng - Felten sau khi đứng tại chỗ nhìn Milady, không bước thêm một bước về phía nàng, liền bảo - Đi báo cho ngài De Winter là nữ tù nhân của ông ta bị ngất, bởi tôi không biết làm thế nào, trường hợp này đã không tính trước. Người lính tuân lệnh đi ra, Felten ngồi đợi ở chiếc ghế bành vô tình kê gần cửa không nói một lời, cũng không động đậy, Milady vốn có cái tài lớn đã được đám đàn bà dày công nghiên cứu là có thể nhìn qua lớp lông mi dài mà lại làm như không phải mở mi. Nàng thấy Felten ngồi quay lưng lại. Nàng tiếp tục nhìn chàng sĩ quan khoảng gần mươi phút và trong mươi phút ấy người ngồi gác vẫn trơ trơ không hề ngoái lại lấy một lần. Nàng nghĩ có lẽ Huân tước De Winter cũng sắp đến, và sự có mặt của ông ta sẽ đem lại một sức mạnh mới cho viên giám ngục của mình. Cuộc thử nghiệm đầu tiên của nàng đã bị thất bại. Nàng đành chịu điều đó như một người đàn bà vững tin ở những khả năng trời phú cho đàn bà. Thế là nàng ngẩng đầu lên, mở mắt và khẽ thở dài. Nghe tiếng thở dài, Felten rút cục cũng quay lại. - Kìa, bà đã dậy rồi? - Chàng ta nói - Tôi không còn việc gì ở đây nữa? Nếu bà cần gì, bà cứ lắc chuông. - Ôi trời ơi! Trời ơi! Sao tôi đau đớn đến thế này! - Milady thầm thì bằng một giọng du dương giống như những mụ yêu tinh thời xưa làm mê hồn tất cả những người nào nó muốn hại. Rồi nàng ngồi thẳng lên trên ghế bành, ở một tư thế duyên dáng nhất và còn buông thả hơn cả khi nàng đang nằm. Felten đứng lên và nói: - Bà sẽ được phục vụ như thế ba lần mỗi ngày, buổi sáng, chín giờ, buổi trưa, một giờ và buổi tối, tám giờ. Nếu không thích hợp với bà, bà có thể định giờ cho mình, người ta sẽ làm theo ý bà. - Nhưng tôi cứ phải luôn đơn độc trong căn buồng rộng và buồn tẻ này vậy sao? - Milady hỏi. - Một người đàn bà vùng lân cận đã được báo, ngày mai sẽ ở lâu đài và lúc nào bà muốn bà ta sẽ đến. - Tôi xin cảm ơn ông - nữ tù nhân trả lời khiêm tốn. Felten khẽ chào và đi về phía cửa. Đúng lúc chàng ta sắp bước qua ngưỡng cửa, Huân tước De Winter xuất hiện trong hành lang, theo sau là người lính đi báo cho ông ta cái tin Milady bị ngất. Ông ta cầm trong tay một lọ muối. - Thế nào? Có chuyện gì nào? Chuyện gì diễn ra ở đây? - Ông ta vừa nhìn nữ tù nhân của mình đang ớứng và Felten đang sắp bước ra vừa nói bằng một giọng châm biếm - Cái người chết ấy đã sống lại rồi ư? Mẹ kiếp, Felten, chú bé ơi, vậy là anh không thấy người ta coi anh là một gã tập toạng vào nghề sao mà người ta vừa mới diễn cái màn đầu của vở hài kịch cho anh xem ư? Chắc hẳn thế nào chúng ta chẳng có được cái thú vị theo dõi tất cả những màn tiếp theo của vở kịch? - Thưa Huân tước, tôi cũng đã nghĩ lắm chứ - Felten nói - Nhưng, rút cục, vì tù nhân là phụ nữ nên dẫu sao tôi cũng muốn có sự kiêng nể với bà ta như mọi người dòng dõi đối xử với phụ nữ, nếu không vì họ thì ít nhất cũng vì bản thân người đó. Milady rùng hết cả người. Những lời nói của Felten giống như một dòng nước đá chảy trong khắp các mạch máu của nàng. De Winter vừa cười vừa nói tiếp: - Vậy là, những mớ tóc đẹp xõa ra khéo léo, làn da trắng, và cái nhìn yểu điệu kia còn chưa quyến rũ nổi anh ư, hở trái tim sắt đá? - Không, thưa Huân tước - chàng trai sắt đá trả lời - xin ông cứ tin tôi Phải là cái gì hơn những thủ đoạn quỷ quyệt và những lối đỏm dáng của đàn bà mới làm sa ngã được tôi. - Nếu đã vậy, chàng trung úy dũng cảm của tôi, hãy để Milady tìm xem có gì hơn không, và ta đi ăn tối đã. Mà anh cứ yên tâm. Bà ta có trí tưởng tượng phong phú, và màn thứ hai sẽ sớm ra mắt tiếp màn đầu ngay. Nói xong, Huân tước De Winter khoác tay Felten vừa cười vừa lôi anh ta đi. "Ồ, rồi ta sẽ tìm được cái cần cho mi thôi - Milady lẩm bẩm qua kẽ răng - Cứ yên tâm, tên thày tu hụt khốn kiếp, tên lính khốn kiếp cải đạo lấy áo thày tu may thành áo lính kia ạ". - Nhân tiện - De Winter dừng lại ở ngưỡng của nói tiếp Milady, đừng nên để sự thất bại này làm cho ăn mất ngon, hãy nếm thử món gà giò, và những con cá mà tôi không bảo cho thuốc độc vào đâu, tôi thề danh dự đấy. Tôi khá hợp với đầu bếp của tôi, và vì nó không được thừa kế gì ở tôi, nên tôi hoàn toàn và đầy tin tưởng vào hắn. Hãy làm như tôi đi. Tạm biệt bà chị thân mến! Hẹn đến lần ngất sau của bà. Đó là tất cả những gì Milady có thể chịu đựng. Hai bàn tay bấu vào tay ghế, răng nghiến khan, mắt dõi nhìn cánh cửa đóng lại đằng sau Winter và Felten. Và khi thấy chỉ còn có một mình, một cơn khủng hoảng về nỗi tuyệt vọng lại xâm chiếm nàng. Nàng liếc mắt nhìn lên bàn, thấy lấp lánh con dao liền lao tới và vồ lấy. Nhưng sự thất vọng của nàng thật tàn nhẫn: lưỡi dao tròn, không sắc và bằng bạc nên mềm. Một tràng cười vang sau cánh cửa khép hở và cửa mở toang. - Chà, chà, - Huân tước De Winter kêu lên - Anh thấy rõ chưa, chàng Felten tử tế của ta, anh thấy những gì ta đã nói với anh chưa: con dao ấy là dành cho anh đấy, chú em ạ, mụ ta đã định giết anh, anh thấy chưa, đấy mới là một trong những thói điên cuồng của mụ ta để bằng cách này hay cách khác, thanh toán những người làm vướng chân mụ. Nếu ta nghe anh, con dao đã phải sắc nhọn và bằng thép, thế là hết đời Felten, mụ ta đã cắt cổ anh rồi, và sau anh là tất cả mọi người. Nhìn xem, John, mụ ta sử dụng dao có cừ không. Quả thật Milady vẫn còn cầm con dao tấn công trong bàn tay co quắp, nhưng nghe những câu nói cuối cùng ấy, một sự lăng mạ đến cực điểm ấy, bàn tay nàng, sức lực nàng và cả ý chí nàng nữa đều rã rời ra. Con dao rơi xuống đất. - Thưa Huân tước, ông nói phải - Felten nói bằng một giọng tởm lợm sâu sắc vang tới tận đáy lòng Milady - Ông nói phải lắm, và chính tôi đã lầm. Và cả hai lại đi ra. Nhưng lần này, Milady lắng tai chăm chú hơn lần trước và nàng thấy bước chân họ xa dần và im mất ở cuối hành lang. - Ta nguy rồi - nàng lẩm bẩm - Thế là ta đã bị đặt dưới quyền lực của những kẻ mà ta chẳng còn cách gì hơn để tác động đến họ như là trước những pho tượng bằng đồng hoặc bằng đá hoa cương. Chúng hiểu thấu tận tim gan ta và như đeo giáp sát trước mọi vũ khí của ta. Tuy nhiên mọi việc không thể kết thúc như chúng quyết định. Quả vậy, ý nghĩ cuối cùng đã là như thế thì hy vọng lại trở lại theo bản năng trong cái tâm hồn xấu xa mà nỗi sợ và những tình cảm yếu đuối không sống lâu nổi. Milady ngồi vào bàn, ăn nhiều món, nhưng chỉ một chút rượu vang Tây Ban Nha và cảm thấy mọi quyết tâm của mình đã trở lại. Trước khi đi ngủ, nàng đã lý giải, phân tích, lật đi lật lại các mặt, xem xét tất cả các khía cạnh, lời nói, cử chỉ, bước đi, dấu hiệu cho đến cả sự im lặng của những kẻ đối đáp với mình và từ sự nghiên cứu sâu sắc, khéo léo, và thông thái này, có thể rút ra, Felten dẫu sao cũng là kẻ dễ bị xâm hại hơn trong hai kẻ đang ngược đãi nàng. Trên tất cả, người nữ tù nhân nhớ lại câu nói mà De Winter đã nói với Felten: "Nếu ta đã nghe anh". Như vậy tức là Felten khi nói đã có ý ưu ái với nàng, vì thế, De Winter mới không muốn nghe Felten. - Dù sáng hay mờ - Milady nhắc lại - từ con người đó cũng lóe lên một ánh thương hại trong tâm hồn hắn, từ đốm sáng này ta sẽ tạo thành một đám cháy nuốt sống hắn. - Còn tên kia, hắn biết ta, sợ ta và biết điều gì đợi hắn nếu ta thoát khỏi tay hắn, cho nên dụ dỗ hắn chỉ vô ích. Nhưng Felten lại là chuyện khác, đó là một gã trai tơ ngây thơ trong trắng, và có vẻ có đức hạnh. Tên này, sẽ có cách hại hắn. - Và Milady đi nằm rồi ngủ với nụ cười trên môi. Nếu ai đó thấy nàng ngủ như thế hẳn đã bảo đó là một thiếu nữ đang mơ đến một vành hoa mà nàng phải đội quanh trán trong ngày hội tới. Chú thích: (1) Vịnh Bôtany, ở gần Sidney (Australia) nơi lưu đày các tù nhân Anh. (2) Tybum, quảng trường, nơi thi hành án tử hình, một pháp trường nổi tiếng thời đó ở London |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:47 | |
| Chương 53
Ngày thứ hai bị giam cầm
Milady mơ thấy cuối cùng mình đã tóm được D Artagnan, nàng tham dự cuộc hành quyết, và chính việc nhìn thấy dòng máu hôi tanh của chàng chảy dưới lưỡi rìu của đao phủ đã phác nên nụ cười duyên dáng trên môi nàng. Nàng ngủ như một người tù được ru bằng niềm hy vọng đầu tiên. Hôm sau, khi người ta vào trong buồng nàng, nàng vẫn còn nằm trên giường. Felten ở ngoài hành lang. Anh ta dẫn theo người đàn bà đã nói đêm trước vừa mới tới. Người đàn bà đó vào buồng và lại gần giường Milady và ngỏ ý phục vụ nàng. Milady thường thường da vẫn tái xanh, làm cho người gặp nàng lần đầu dễ bị nhầm lẫn. - Tôi bị sốt - Nàng nói - Tôi không ngủ được lấy một phút trong suốt cái đêm dài dặc này. Tôi đau đớn khủng khiếp lắm. Bà sẽ nhân đức với tôi hơn người ta đối xử với tôi hôm qua chứ? Tất cả những gì tôi yêu cầu là cho phép tôi được nằm. - Bà có muốn cho gọi thầy thuốc không? - Người đàn bà nói. Felten nghe cuộc đối thoại không nói một lời. Milady suy nghĩ, người ta càng cho nhiều người đến, nàng càng có nhiều người hơn đoái thương nàng, nhưng ông De Winter lại càng tăng cường giám sát. Vả lại, thầy thuốc có thể tuyên bố bệnh là giả vờ, và Milady sau khi bị thua keo đầu không muốn bị thua trận thứ hai. - Đi tìm thầy thuốc ư? - Nàng nói - Để làm gì? Hôm qua các vị ấy tuyên bố bố bệnh tôi chỉ là trò hề, vậy hôm nay cũng thế thôi, bởi vì từ tối hôm qua, người ta đã có đủ thì giờ để gọi bác sĩ. Felten sốt ruột nói: - Vậy bà hãy nói xem bà muốn điều trị thế nào? - Lạy Chúa! Làm sao tôi biết được? Tôi cảm thấy tôi đau, có thế thôi, muốn cho tôi cái gì thì cho, tôi chẳng cần. Felten mệt mỏi vì những lời phàn nàn lẽo nhẽo mãi: - Đi tìm ông De Winter thôi. - Ồ, không, không, - Milady kêu lên - không, thưa ông, đừng gọi ông ta, tôi xin ông đấy, tôi không sao cả, tôi không cần gì hết, đừng gọi ông ta. Nàng tuôn ra một tràng hùng biện vừa quyết liệt kỳ lạ vừa lôi cuốn vô cùng khiến Felten cũng phải xiêu lòng bước mấy bước vào trong căn buồng Milady nghĩ "Hắn đã tới". - Tuy nhiên, thưa bà - Felten nói - Nếu bà đau ốm thực sự, người ta sẽ cho tìm thầy thuốc, và nếu bà lừa chúng tôi, nghe đây, sẽ mặc xác bà, nhưng ít nhất về phía chúng tôi, chúng tôi sẽ không có gì phải ân hận. Milady không trả lời gì, mà ngửa cái đầu xinh đẹp của mình ra trên gối, òa lên nức nở, nước mắt đầm đìa. Felten nhìn nàng một lát trơ trơ như thường lệ, rồi thấy nguy cơ cơn điên có thể kéo dài, anh chàng đi ra. Người đàn bà nhìn theo. Vẫn không thấy ông De Winter đâu. - Ta tin ta đã bắt đầu thấy rõ - Milady lẩm bẩm với một nỗi mừng vui hoang dại, vùi mình vào trong chăn để che giấu tất cả những ai có thể chợt bắt gặp sù bột phát thỏa mãn nội tâm ấy. Hai giờ trôi qua. "Giờ là lúc cơn bệnh phải dừng lại - nàng nói - hãy đứng lên và thu lấy chút thành công nào đó kể từ hôm nay. Ta chỉ có mười ngày, và tối nay, thế là đã trôi mất hai ngày". Buổi sáng, lúc vào buồng Milady, người ta đã mang đến cho nàng bữa điểm tâm. Nàng nghĩ họ sẽ sớm đến dọn đi và lúc đó nàng sẽ gặp lại Felten. Milady đã không nhầm, Felten đã trở lại, không hề để ý đến việc có hay không đụng đến bừa ăn, ra hiệu cho mang ra khỏi phòng, vẫn còn nguyên như khi mang đến. Felten là người ở lại cuối cùng, tay vẫn cầm cuốn sách. Milady nằm ngả người trong chiếc ghế bành gần lò sưởi, đẹp, xanh xao, nhẫn nhục, như một thánh nữ đồng trinh đang chờ tử đạo. Felten lại gần nàng và nói: - Huân tước De Winter cũng là tín đồ Cơ đốc như bà, đã nghĩ rằng sự lược bỏ những nghi thức và giáo lễ của tôn giáo bà có thể làm bà khổ tâm. Ông đồng ý cho bà được hàng ngày đọc kinh Misa của bà và đây là cuốn sách có bài kinh ấy. Trước cung cách Felten đặt cuốn sách lên chiếc bàn nhỏ gần chỗ Milady, nghe giọng nói khi chàng ta đọc lên mấy tiếng kinh Misa của bà, với nụ cười khinh thị đi kèm, Milady ngẩng đầu và nhìn chăm chú hơn viên sĩ quan. Thế là, với bộ tóc tai nghiêm túc, bộ quần áo giản dị tới mức thái quá, cái trán nhẵn bóng như đá cẩm thạch, nhưng rắn chắc và khó lọt vào như chàng ta, Milady nhận ra đây là một trong những tín đồ Thanh giáo u sầu mà nàng đã từng gặp quá thường xuyên lúc ở triều đình vua Jắc cũng như ở triều đình vua Pháp, ở đó mặc dầu vụ thảm sát xanh Báctêlêmy, đôi khi họ vẫn đến tìm nơi lánh nạn. Nàng bỗng có một cảm hứng bất ngờ mà chỉ có những bậc thiên tài mới có được trong những cơn khủng hoảng tinh thần lớn, trong lúc lâm chung, nó quyết định số phận hoặc sinh mạng họ. Mấy tiếng kinh Misa của bà và chỉ liếc mắt nhìn Felten cũng đủ biểu lộ tầm quan trọng của câu trả lời mà nàng sắp nói ra. Nhưng với sự thông minh nhanh nhạy riêng nàng mới có, câu trả lời ấy đã hình thành sẵn ở trên môi: - Tôi ư? - Nàng nói với một thái độ khinh thị sao cho thích hợp với giọng nói nàng đã nhận thấy ở viên sĩ quan trẻ - Tôi ư, thưa ông, kinh Misa của tôi ư! Huân tước De Winter, gã tín đồ Cơ đốc đồi trụy ấy biết thừa tôi không cùng tôn giáo với hắn ta, và đó là một cái bẫy hắn muốn chăng ra với tôi? - Vậy thưa bà, bà theo tôn giáo nào? - Felten ngạc nhiên hỏi, đến mức bất chấp việc chàng thường tự kiềm chế được mình, không giấu nổi hoàn toàn sự ngạc nhiên đó. Milady giả vờ phấn khích kêu lên: - Tôi sẽ nói ra điều đó vào một ngày tôi quá đủ đau khổ vì đức tin của mình. Cái nhìn của Felten mở ra cho Milady cả một không gian bao la mà nàng vừa hé mở ra chỉ bằng một câu nói. Tuy nhiên viên sĩ quan trẻ vẫn câm lặng và không nhúc nhích, chỉ con mắt là cất tiếng nói thôi. - Tôi đang trong tay kẻ thù của mình - nàng tiếp tục bằng cái giọng sôi nổi mà nàng biết nó thường quen thuộc với dân Thanh giáo - cứ để Chúa cứu tôi, hoặc tôi chết vì Chúa! Đó là câu trả lời mà tôi xin ông nói lại với ông De Winter. Còn về cuốn sách - nàng vừa nói thêm vừa lấy ngón tay chỉ cuốn sách kinh không hề được động đến, như thể sợ mình cũng bị nhơ bẩn lây - Ông có thể mang về dùng cho bản thân ông, bởi vì chắc chắn ông đã hai lần đồng lõa với Huân tước De Winter, đồng lõa trong chuyện ngược đãi, đồng lõa trong tà đạo của ông ta. Felten không trả lời gì, cầm lấy cuốn sách với cùng một thái độ ghê tởm mà chàng ta đã từng biểu lộ và rút lui với vẻ mặt trầm ngâm. Huân tước De Winter đến vào lúc năm giờ chiều. Milady, đã có cả một ngày trời để vạch một kế hoạch xử sự. Nàng tiếp ông ta với tư cách một phụ nữ đã nắm được tất cả mọi lợi thế của đàn bà. Nam tước ngồi vào chiếc ghế bành đối diện với Milady uể oải gác chân lên lò sưởi và nói: - Hình như chúng ta đang định bỏ đạo? - Thưa ông, ông muốn nói sao? - Tôi muốn nói rằng kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, bà đã thay đổi tôn giáo rồi. Tình cờ bà đã lấy người chồng thứ ba theo đạo Tin lành chăng? - Huân tước, ông hãy giải thích cho tôi - nữ tù nhân nói một cách chững chạc - Bởi vì tôi tuyên bố tôi nghe thấy lời ông nói nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. De Winter cười gằn: - Được thôi, đó là bà chẳng có thứ tôn giáo nào cả! Tôi lại thích thế hơn đấy. - Chắc chắn là hơn theo những nguyên tắc của ông rồi - Milady lạnh lùng nói tiếp. - Ồ, tôi xin thú thực với bà, điều đó đối với tôi hoàn toàn vô nghĩa. - Ồ, ông sẽ chẳng thú nhận sự lãnh đạm tôn giáo ấy đâu, Huân tước ạ, nhưng những việc đồi bại và tội ác của ông làm cho phải tin như vậy. - Hả, bà nói về những chuyện đồi bại ư, bà Messaline, Mácbét phu nhân(1), hay tôi nghe nhầm, hoặc, mẹ kiếp, bà quá vô liêm sỉ! - Ông nói như thế bởi vì ông biết người ta đang lắng nghe chúng ta - Milady lạnh lùng trả lời - và ông muốn tác động đến bọn giám ngục và đao phủ của ông chống lại tôi. - Giám ngục của tôi? Đao phủ của tôi? Gớm chưa, bà lại nói bằng cái giọng thơ phú rồi và tấn hài kịch hôm qua tối nay lại quay ngoắt sang bi kịch. Rút cục thì tám ngày nữa là bà cũng sẽ ở nơi bà phải ở và tôi sẽ xong nhiệm vụ. - Nhiệm vụ đê tiện! Nhiệm vụ vô luận! - Milady nói tiếp với thái độ nóng nảy của nạn nhân khiêu khích quan tòa của mình. Huân tước De Winter đứng dậy và nói: - Ta tin con mụ vô lại này phát rồ rồi! Ta thề vậy đấy. Thôi nào, thôi nào, bình tĩnh lại nào, thưa bà Thanh giáo, nếu không ta phải nhất bà vào hầm kín thôi. Mẹ kiếp, rượu vang Tây Ban Nha của ta bốc lên đầu bà rồi không phải thế sao. Nhưng cứ yên tâm, cơn say đó không nguy hiểm và không có hậu quả xấu đâu. Và Huân tước De Winter vừa lui ra vừa chửi thề vốn là một thói quen hoàn toàn mang tính cách dân kỵ sĩ thời bấy giờ. Felten lúc đó đứng sau cánh cửa và không để sót một câu nào trong cảnh tượng đó. Milady đã đoán đúng. - Được cứ đi đi, - Nàng nói vớỉ em chồng - Hậu quả đang tới gần, và trái hẳn lại, rồi mày sẽ thấy, đồ súc sinh, khi chẳng còn thời gian để tránh chúng. Tất cả lại trở nên yên tĩnh. Hai giờ nửa trôi qua. Người ta mang bữa tối đến và thấy Milady đang bận đọc to những câu kinh cầu nguyện của nàng, mà nàng học được ở ông lão bộc của người chồng thứ hai, một tín đồ Thanh giáo thuộc loại khắc kỷ nhất. Nàng làm như đang đê mê ngây ngất và không còn chú ý đến những gì diễn ra xung quanh nữa. Felten ra hiệu đừng ai quấy rầy nàng và khi tất cả đã đâu vào đấy, anh chàng lẳng lặng đi ra cùng với mấy người lính. Milady biết nàng có thể bị rình rập nên tiếp tục đọc kinh cho đến hết và nàng thấy hình như người lính đang canh phòng ngoài cửa không đi lại thêm bước nào nữa mà còn lắng tai nghe. Tới lúc ấy, nàng không còn muốn gì hơn nữa, liền vùng dậy, ngồi vào bàn ăn ít thôi và chỉ uống nước. Một giờ sau, người ta đến dọn bàn ăn, nhưng Milady nhận thấy lần này Felten không đi cùng bọn lính. Vậy là anh ta sợ gặp nàng quá nhiều. Nàng quay mặt vào tường để mỉm cười, bởi trong nụ cười ấy có một biểu hiện thành công nào đó khiến chỉ riêng nó đã đủ làm nàng lộ chân tướng. Nàng để cho nửa giờ nữa trôi qua, và vì lúc đó, cái lâu đài cũ kỹ đã hoàn toàn yên tĩnh, người ta chỉ còn nghe tiếng sóng rì rào vô tận, tiếng thở bao la của đại dương, nàng bèn cất lên bằng một giọng trong trẻo, du dương và ngân nga đoạn đầu của bài thánh thi thời đó, được mọi tín đồ Thanh giáo ưa thích. "Ôi Chúa, Người bỏ chúng con Để thử xem liệu chúng con đủ mạnh Nhưng rồi bàn tay thiên giới của Người Lại ban thắng lợi vẻ vang cho nỗ lực của chúng con" Những câu thơ đó không hay lắm, còn phải cố gắng nhiều nhưng như người ta biết, dân Thanh giáo đâu có tự hào về thi ca. Vừa ngân nga, Milady vừa lắng nghe. Người lính gác ở cửa đã dừng hẳn lại như thể biến mình thành đá. Milady vậy là có thể đánh giá hiệu quả do mình đã tạo ra. Thế là nàng lại tiếp tục cất giọng hát với một lòng tin cuồng nhiệt và một tình cảm không thể diễn tả nổi. Nàng thấy dường như những âm thanh lan tỏa mãi ra xa dưới những mái vòm như một phép mầu nhiệm, làm dịu những trái tim của bọn cai ngục. Song người lính đi tuần hẳn một là tín đồ Cơ đốc giáo nhiệt tín, lại chối bỏ phép mầu, nói chõ vào trong: - Bà có im đi không! Bài ca của bà buồn như bài cầu hồn ấy(2). Và nếu như ngoài việc phải bằng lòng đồn trú ỏ đây, lại phải nghe thêm những điều như vậy nữa, ai mà chịu nổi. - Thôi! - Một giọng trầm trầm mà Milady nhận ra ngay là giọng Felten cất lên - Sao anh xen vào chuyện này, đồ vô lại! Người ta ra lệnh cho anh cấm người đàn bà đó hát à? Không, người ta bảo anh canh gác bà ta, bắn vào bà ta nếu bà ta tìm cách chạy trốn. Vậy hãy canh gác bà ta, nếu bà ta trốn, cứ giết. Nhưng đừng thay đổi gì chuyện phạt giam. Khuôn mặt Milady rạng rỡ vẻ vui mừng khôn tả, nhưng vẻ mặt ấy có vẻ lén lút như phản xạ của một ánh chớp và không để lộ ra là đã nghe thấy cuộc đối thoại mà nàng không bỏ sót một lời nàng lại tiếp tục đem tất cả vào giọng hát của mình sự mê hồn, sức mạnh và sự cám dỗ yêu quái… "Biết bao nước mắt, bao nỗi đắng cay Trong xiềng gông và trong cảnh lưu đày… Ta lại có tuổi xanh và lời cầu nguyện. Chúa sẽ bù cho đau khổ của ta thôi…" Giọng ca với sức mạnh chưa từng thấy và sự đam mê tột đỉnh, đem lại cho chất thơ thô thiển và nghèo nàn của bàì Thánh thi một ma lực và một biểu hiện mà những ngươi Thanh giáo cuồng nhiệt nhất hiếm khi thấy trong những tiếng hát các đạo hữu của mình, và họ buộc phải tô điểm thêm bằng tất cả nguồn sức mạnh của trí tưởng tượng của họ: Felten tưởng như một vị thiên sứ hát ru ba người Hêbrơ(3) trong vạc dầu. Milady lại tiếp tục: "Nhưng rồi ngày giải thoát sẽ đến với chúng con, Chúa công minh đầy sức mạnh Nếu Chúa lừa hy vọng của chúng con Vẫn luôn còn tuẫn đạo và cái chết". Khổ thơ mà mụ pháp sư đáng sợ đã cố đem hết tâm hồn mình vào đó, cũng hoàn thành việc đem đến sự xáo trộn trong lòng người sĩ quan non trẻ. Chàng bất thình lình mở tung cửa và Milady thấy chàng vẫn xanh xao như luôn thế, nhưng đôi mắt nồng nàn và hầu như lạc hẳn đi. - Tại sao bà cứ hát như thế? - chàng nói - và với một cái giọng như thế? - Xin lỗi ông - Milady dịu dàng nói - tôi quên khuấy là tiếng hát của tôi không phù hợp trong ngôi nhà này. Có lẽ tôi đã xúc phạm đến đức tin của ông. Nhưng tôi xin thề với ông, tôi đâu muốn thế. Hãy tha thứ cho tôi một lỗi có lẽ là lớn đấy, nhưng chắc chắn chỉ vô tình. Milady lúc này sao đẹp thế, trạng thái đê mê tín ngưỡng mà nàng đang đắm mình vào, đem lại một vẻ đẹp trên khuôn mặt nàng, đến nỗi Felten như quáng mắt, tưởng rằng đấy chính là vị thiên sứ mà chàng vừa nghe lúc nãy. - Phải, phải lắm - chàng trả lời - đúng là bà đã làm bối rối, đã khuấy động mọi người sống trong tòa lâu đài này. - Và anh chàng mất trí đáng thương cũng không nhận thấy những lời nói thiếu mạch lạc của bản thân mình, trong khi đó Milady thọc sâu con mắt mèo rừng vào nơi sâu kín nhất của trái tim chàng. - Tôi sẽ im - Milady vừa nói vừa cúp mắt xuống với tất cả sự dịu dàng nàng có thể đem lại cho giọng nói của mình và với tất cả sự nhẫn nhục có thể biểu lộ ra trong cách xử sự của mình. - Không, không, thưa bà - Felten nói - có điều, bà hát nhỏ hơn, nhất là ban đêm thôi. Nói rồi, Felten, cảm thấy mình không thể giữ mãi vẻ nghiêm khắc đối với người nữ tù nhân nữa, liền lao ra khỏi phòng. - Ông làm thế đúng lắm, trung úy ạ - người lính nói - Những tiếng hát đó làm đảo lộn tâm hồn. Tuy nhiên rồi người ta cũng quen đi, giọng hát bà ta sao mà tuyệt thế? Chú thích: (1) Messaline - người vợ đầu của Hoàng đế La mã Clốt đệ nhất, nổi tiếng đồi trụy bị giết năm 48. Mácbét: Vua xứ Ecốt - Kịch cùng tên của Sếchxpia: Mácbét ám sát vua Đăncan. Khi vua đang ngủ, phu nhân Mácbét đi vào, lấy ngón tay nhúng vào máu nạn nhân bôi lên mặt và bàn tay của hai thị vệ, đổ tội cho hai người này. (2) De Profondis, tiếng Latinh có nghĩa là "những chiều sâu vực thẳm" trong bài kinh cầu nguyện cho người chết (3) Tức người Do Thái |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:47 | |
| Chương 54
Ngày thứ ba bị giam cầm. Felten đã cắn câu. Nhưng còn một bước nữa phải làm. Phải giữ hắn lại, hoặc đúng hơn là hắn phải ở lại một mình. Và Milady mới chỉ nhìn thấy mờ mờ cái phương cách dẫn nàng đến kết quả ấy Phải hơn thế ấy chứ. Phải làm cho hắn phải há miệng để mình còn nói được với hắn. Bởi vì, Milady thừa biết sự cám dỗ lớn nhất ở nàng là giọng nói, có thể lướt trên tất cả các cung bậc âm thanh một cách tài tình từ giọng nói nhân gian đến ngôn ngữ thiên thần. - Và tuy nhiên, mặc cho mọi sức quyến rũ ấy, Milady vẫn có thể thất bại, bởi vì Felten đã được báo trước để phòng ngừa, và điều đó chống lại sự may rủi. Từ lúc đó, nàng cẩn thận giữ gìn mọi hành động, lời nói cho đến cả từng cái nhìn đơn giản, từng cử chỉ, từng hơi thở mà người ta có thể lắm chuyện bảo là tiếng thở dài. Rút cuộc, nàng phải nghiên cứu tất cả như một diễn viên hài kịch tài ba phải làm khi người ta trao cho một vai mới chưa quen đóng. Đối diện với Huân tước De Winter, cách xử sự của nàng dễ dàng hơn. Việc đó đã được vạch ra từ tối hôm trước rồi. Trước mặt hắn ta, hãy như câm và tỏ ra chững chạc, thỉnh thoảng lại chọc giận hắn ta bằng vẻ khinh khỉnh đáng yêu, bằng một câu khinh bỉ đẩy hắn ra đến những việc hăm dọa và hung bạo trái hẳn với sự nhẫn nhục của nàng, đó chính là ý đồ của nàng, Felten sẽ thấy, có thể sẽ chẳng nói gì, nhưng sẽ thấy hết. Buổi sáng, Felten đến như thường lệ, nhưng Milady cứ để mặc cho chàng ta điều khiển sắp xếp bữa điểm tâm mà không nói với chàng ta lời nào. Vì thế, lúc anh chàng sắp sửa rút lui, trong nàng đã lóe lên một tia hy vọng nhỏ bởi nàng tưởng chính anh ta sẽ nói trước. Nhưng đôi môi anh ta chỉ mấp máy mà không một lời nào thốt ra khỏi miệng, và cố kiềm chế bản thân, anh ta khép kín những lời đính nói trong trái tim mình và đi ra. Đến trưa, Huân tước De Winter đi vào. Đó là một ngày mùa đông đẹp trời, và một tia nắng mặt trời nhợt nhạt của nước Anh lóe sáng, nhưng không ấm áp, lọt qua những song sắt của phòng tù. Milady nhìn qua cửa sổ, làm ra vẻ không nghe thấy tiếng cửa mở. Huân tước De Winter nói: - A, a, sau khi đã diễn trò hàỉ kịch, rồi diễn trò bi kịch, giờ ta chơi trò u buồn. Nữ tù nhân không trả lời. De Winter tiếp tục: - Phải, phải, tôi hiểu. Bà muốn được tự do trên bờ biển kia lắm. Bà muốn lắm trên một con tàu rẽ sóng biển xanh như ngọc bích. Bà muốn lắm, hoặc trên đất liền, hoặc trên đại dương, dựng lên cho tôi một cuộc phục kích hay hay nho nhỏ mà bà biết cách phối kết rất tài. Hãy kiên nhẫn! Hãy kiên nhẫn! Bốn ngày nữa thôi là bờ biển kia bà sẽ được phép, biển sẽ mở ra cho bà, còn mở rộng hơn là bà mong muốn ấy chứ, bởi bốn ngày nữa, nước Anh sẽ tống khứ được bà. Milady chắp hai tay lại và ngước đôi mắt đẹp lên nhìn trời: - Thượng đế! Ôi! Thượng đế! - Nàng nói với dáng điệu và giọng nói ngọt ngào thiên sứ - Hãy tha thứ cho con người đó, cũng như bản thân con cũng tha thứ cho ông ta. Nam tước De Winter hét lên: - Ừ, cứ cầu xin đi, đồ thối tha, lời cầu nguyện của mụ xem ra càng bao dung hơn chừng nào mụ còn trong quyền lực của một người sẽ không tha thứ cho mụ, ta thề như thế đấy. Và ông ta bỏ đi. - Đúng lúc ông ta đi ra, Milady đưa cặp mắt sắc nhọn nhìn qua khe cửa và thấy Felten vội lánh sang một bên để nàng khỏi nhìn thấy. Thế là nàng lại quỳ ngay xuống và cầu nguyện: - Lạy Chúa! Lạy Chúa! Người biết rõ con đau khổ vì lẽ thánh nào, vậy xin Người hãy cho con sức mạnh để con đau khổ. Cửa mở khẽ. Người đẹp đang cầu nguyện làm như không nghe thấy tiếng động, và bằng một giọng tràn đầy nước mắt, nàng tiếp tục: - Lạy Đức Chúa báo hận! Lạy Đức Chúa nhân từ! Người nỡ để mặc cho con người đó hoàn thành những ý đồ ghê tởm của hắn ư? Chỉ đến lúc đó nàng mới vờ nghe thấy tiếng bước chân Felten và đứng bật ngay dậy, đỏ mặt lên như thể xấu hổ vì bị bắt gặp đang quỳ. - Tôi không thích quấy rối những ai đang cầu nguyện chút nào, thưa bà - Felten nghiêm trang nói - vậy xin bà đừng bận tâm vì tôi, tôi cầu xin bà đấy. - Làm sao ông biết tôi đang cầu nguyện, thưa ông? - Milady hỏi bằng một giọng ngột ngạt vì thổn thức - Ông nhầm rồi, thưa ông, tôi không cầu nguyện đâu? - Bà nghĩ thế ư, thưa bà - Felten trả lời vẫn với giọng nghiêm trang, cho dù có vẻ dịu dàng hơn - bà nghĩ rằng tôi tin là tôi có quyền ngăn cản một sinh linh quỳ lạy trước Chúa sáng thế ư? Chúa không bằng lòng thế đâu! Vả lại, sự hối hận rất phù hợp với những kẻ phạm tội. Dù mắc phải tội ác đến thế nào đi nữa, kẻ phạm tội đã quỳ dưới chân của Chúa đối với tôi đều thiêng liêng. - Tôi, tội phạm ư? - Milady nói với một nụ cười có thể tước bỏ vũ khí của thiên thần trong phiên chung thẩm - Tội phạm? Chúa ơi, chỉ có Người mới biết con có phải là tội phạm không? Thưa ông, hãy bảo tôi bị kết tội, thế mới đúng. Nhưng ông biết đấy Chúa thương những người tuẫn đạo, đôi khi cũng cho phép kết án người vô tội. Felten trả lời: - Dù bà bị kết tội, dù bà tuẫn đạo, bà càng có lý do để cầu nguyện và bản thân tôi, tôi cũng sẽ giúp bà cầu nguyện. Milady quỳ sụp xuống chân chàng ta và kêu lên: - Ôi, ông đúng là một bậc công minh. Ông ơi, tôi không thể chịu nổi lâu thêm nữa đâu, bởi tôi sợ không còn sức lực lúc tôi cần vững vàng tranh đấu và tuyên bố đức tin của mình. Vậy xin ông hãy lắng nghe lời khẩn cầu của một người đàn bà đang tuyệt vọng. Thưa ông, người ta lợi dụng ông, nhưng không phải là vấn đề đó, tôi xin ông một ân huệ và nếu như ông đồng ý ban cho tôi, tôi nguyện sẽ cầu chúc cho ông cả trong thế giới này lẫn thế giới bên kia. - Thưa bà, bà hãy nói với ông chủ - Felten tôi không may mắn được ủy thác tha thứ hay trừng phạt. Thượng đế trao trách nhiệm đỏ cho người cao cấp hơn tôi. - Không, chỉ với ông, với ông thôi. Xin hãy nghe tôi, còn hơn là tham gia vào việc hại tôi, tham gia vào việc làm tôi ô nhục. - Nếu bà xứng đáng với nỗi hổ nhục đó, thưa bà, nếu bà gây ra nỗi ô nhục đó, thì phải chịu và hiến dâng nó cho Thượng đế. - Ông nói sao? Ồ, ông không hiểu tôi rồi! Khi tôi nói đến ô nhục, ông tưởng tôi nói về một sự trừng phạt nào đó ư, về nhà tù, về cái chết ư? Xin tùy ở Chúa! Với tôi, cái chết hay nhà tù, nghĩa lý gì đâu? - Thưa bà, chính tôi cũng không hiểu nổi bà nữa! - Hay là làm ra không hiểu nữa, thưa ông - Nữ tù nhân trả lời với nụ cười hoài nghi. - Không thưa bà, thề danh dự của một quân nhân, thề trên đức tin của một tín đồ! - Sao cơ? Ông không biết những ý đồ của ông De Winter với tôi thật ư? - Tôi không biết. - Không thể thế, ông là người tâm phúc của ông ta! - Thưa bà, tôi không bao giờ nói dối. - Ồ, ông ta có che giấu gì nhiều lắm đâu mà ông không đoán ra nổi? - Tôi không tìm cách để đoán gì hết, thưa bà. Tôi mong người ta tin cẩn tôi, và ngoài phần ông ta nói với tôi trước mặt bà, ông ta không thổ lộ gì với tôi hết. - Nhưng - Milady kêu bằng cái giọng thực thà không thể tưởng tượng nổi - Vậy thì ông không phải là kẻ đồng lõa của ông ta rồi, thế ra ông không biết ông ta gán cho tôi một nỗi ô nhục mà tất cả những hình phạt trên trái đất này không thể xứng với sự khủng khiếp của nó sao? - Thưa bà, bà nhầm rồi - Felten vừa nói vừa đỏ mặt lên - Huân tước De Winter không thể phạm một tội ác như vậy. "Tốt lắm! - Milady tự bảo mình - chẳng biết nó như thế nào mà gã ta đã gọi đó là một tội ác rồi?" Rồi nói to: - Bạn của kẻ đê tiện có thể làm được tất! - Bà gọi ai là kẻ đê tiện? - Felten hỏi. - Vậy ở nước Anh liệu có hai người thích hợp với cái tên tương tự như thế không? - Bà muốn nói về Gorge Villiers? - Felten hỏi, mà mắt như nảy lửa. - Về người mà bọn tà giáo, bọn quý tộc vô đạo gọi là Quận công De Buckingham ấy! - Milady lại tiếp - Tôi không tin rằng còn có một người Anh trong khắp nước Anh này lại cần đến một sự giải thích dài dòng đến như thế mới nhận ra kẻ tôi muốn nói! - Bàn tay của Chúa sẽ vươn tới hắn - Felten nói - hắn sẽ không thoát khỏi bị trừng phạt thích đáũg. Felten chỉ biểu lộ thái độ phỉ nhổ mà mọi người Anh thể hiện đối với con người mà bản thân những người Cơ đốc giáo cũng gọi là tên hút máu, tên ăn hối lộ, tên đồi trụy, còn những người Thanh giáo gọi hoàn toàn đơn giản là quỷ satan. - Ôi, lạy Chúa! Lạy Chúa! - Milady kêu lên - Khi con cầu xin Người giáng sự trừng phạt xuống con người đó xứng với tội hắn phải chịu, Người biết rằng không phải con theo đuổi mối thù riêng mà là con van xin Người giải thoát cho cả một dân tộc. - Bà quen biết ông ta chứ? - Felten hỏi. "Cuối cùng gã đã hỏi ta" - Milady tự nhủ, lòng tràn ngập vui sướng vì đạt kết quả nhanh đến thế. Rồi nàng trả lời: - Ồ có chứ! Tôi quen biết ông ta chứ? Thế tôi mới bất hạnh, bất hạnh suốt đời thế này? - Và nàng vặn vẹo hai cánh tay như thể nỗi đau đã lên đến cực điểm. Trong thâm tâm, Leltel cảm thấy mình cũng rã rời, liền bước vài bước về phía cửa, nữ tù nhân vẫn không ngừng để mắt tới chàng ta, chồm theo sau và ngăn lại: - Thưa ông - Nàng la lên - Xin hãy nhân từ, xin hãy bao dung, hãy nghe lời cầu xin của tôi. Cái con dao mà ông Huân tước thận trọng như thể do định mệnh đã tước đoạt mất của tôi bởi ông ta biết tôi định dừng vào việc gì. Ôi, xin ông nghe tôi nói rõ ngọn ngành đã! Con dao đó, xin hãy trả lại tôi, chỉ một phút thôi, xin làm ơn, xin hãy thương tôi! Tôi xin quỳ xuống hôn chân ông. Nào, ông hãy đóng cửa lại đi. Đâu phải ông là người mà tôi căm thù. Trời ơi! Căm thù ông ư? Căm thù con người công minh chính trực, tốt, và nhân từ duy nhất tôi đã gặp ư? Căm thù ông, có thể là cứu tinh của tôi ư? Con dao ấy, một phút, chỉ một phút thôi, tôi sẽ trả lại ông qua ô cửa. Chỉ một phút thôi, ông Felten, và ông sẽ cứu được danh dự cho tôi! - Để bà tự sát! - Felten hoảng hồn kêu lên, quên cả rút tay mình ra khỏi đôi bàn tay của nữ tù nhân - Để bà tự sát? - Thưa ông, tôi đã nói - Milady hạ giọng vừa thầm thì vừa cố ý ngã quỵ xuống sàn nhà - Tôi đã nói hết bí mật của tôi rồi? Ông ta đã biết tất! Trời ơi! Tôi chết mất! Felten vẫn cứ đứng, bất động, ngẩn người ra. "Gã vẫn còn ngờ, Milady nghĩ, ta đã không đúng lắm chăng?" Có tiếng người đang bước trong hành lang. Milady nhận ra tiếng chân của Huân tước De Winter. Felten cũng thấy thế và bước một bước về phía cửa. Milady lao theo và nói như nén giọng: - Ồ, đừng có nói gì đấy. Đừng một lời nào cho con người ấy về những gì tôi đã nói với ông, nếu không tôi chết mất, và chính ông, ông… Rồi, vì những bước chân tới gần, nàng im lặng, sợ người ta nghe thấy giọng nói của mình, áp bàn tay xinh đẹp đang run, lên miệng Felten. Felten khẽ đẩy Milady ra. Nàng chạy ra ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa dài. Huân tước De Winter đi qua cửa mà không dừng lại, rồi tiếng chân xa dần. Felten xanh như một người chết, vẫn để tai nghe ngóng vài phút rồi khi tiếng chân tắt hẳn, chàng ta thở phào như một người vừa ra khỏi một giấc mơ và lao ra khỏi căn phòng. - A - Milady nói và đến lượt mình cũng lắng nghe tiếng chân của Felten đang xa dần về hướng đối diện hướng đi của De Winter - Cuối cùng thì mi đã thuộc về ta! Rồi trán nàng lại sa sầm xuống. - Nếu hắn nói với Huân tước - nàng nói - thì ta chết mất bởi gã Nam tước ấy biết thừa là ta sẽ không tự tử đâu, và đặt dao vào tay ta trước mặt gã trung úy, và ông ta sẽ thấy hết tất cả nỗi tuyệt vọng lớn lao ấy chỉ là một trò hề. Nàng đến đứng trước gương và ngắm nhìn mình chưa bao giờ thấy mình đẹp đến thế. - Ồ! Nàng mỉm cười nói - gã sẽ không nói ra với ông Huân tước đâu! Buổi tối, ông De Winter đi cùng bọn mang đến bữa tối. Milady bảo ông ta: - Thưa ông, sự có mặt của ông phải chăng là một phụ khoản bắt buộc của việc giam cầm tôi, và ông không thể tha tôi cái việc gia tăng khổ hình mà những cuộc thăm viếng của ông gây cho tôi ư? - Sao lại thế được, bà chị thân mến? - De Winter nói - Thế chẳng phải cái miệng xinh đẹp nhưng hôm nay lại quá ư tàn nhẫn với tôi đã từng tuyên bố một cách thân ái rằng bà đến nước Anh với mục đích duy nhất là để thăm tôi cho nó thỏa lòng sao? Bà còn nói với tôi bà cảm thấy quá ư mạnh mẽ sự thiếu thốn niềm vui được gặp gỡ tôi, cho nên bà mới bất chấp tất cả, nào say sóng, bão tố, giam cầm? Thế thì, tôi đây, bà hãy hài lòng đi! Vả lại lần này tôi đến thăm bà là có lý do đấy. Milady rùng mình. Nàng tưởng Felten đã nói. Có lẽ chưa bao giờ trong đời, người đàn bà đã từng trải qua những xúc động mạnh mẽ và đối lập nhau lại cảm thấy tim mình đập mạnh đến thế. Nàng vẫn ngồi. Huân tước De Winter kéo một chiếc ghế bành đến cạnh nàng, ngồi xuống lấy ra một tờ giấy, từ từ mở ra và bảo nàng: - Nghe đây, tôỉ muốn giới thiệu với bà loại hộ chiếu tôi đã tự soạn thảo và từ nay bà sẽ dùng làm số điểm danh trong cuộc đời bà mà tôi bằng lòng dành cho bà. Rồi đưa mắt nhìn từ Milady sang tờ giấy, ông ta đọc: - "Lệnh dẫn độ đến… Tên vùng để trống - De Winter dừng đọc nói - nếu bà thích chỗ nào hơn, miễn là đừng ít hơn một nghìn dặm tính từ London, yêu cầu của bà sẽ được đáp ứng - Tôi đọc lại nhé: "Lệnh dẫn độ đến… người đàn bà có tên là Sáclôt Bêchxơn bị tòa án vương quốc Pháp thích dấu chín, nhưng đã được thả tự do sau khi chịu tội. Phạm nhân sẽ phải cư trú tại nơi đó không bao giờ được phép đi xa quá ba dặm. Trường hợp toan tính chạy trốn, sẽ áp dụng tội tử hình, phạm nhân sẽ được 5 silinh mỗi ngày cho việc ăn ở". Milady lạnh lùng trả lời: - Lệnh đó chẳng liên quan gì tới tôi vì trong đó mang tên người khác chứ không phải tên tôi. - Tên ư? Thì ra bà cũng có một cái tên? - Tôi mang tên của anh ông. - Bà nhầm rồi, anh tôi chỉ là người chồng thứ hai và người chồng thứ nhất còn đang sống. Bà hãy nói tên người ấy và tôi sẽ thay vào cái tên Sáclốt Bếchxơn. Không à?… Bà không muốn à? - Bà im lặng à? Được thôi! Bà sẽ bị đăng ký số tù bằng cái tên Sáclốt Bếchxơn. Milady vẫn lặng im. Có điều, lần này không còn là do giả bộ nữa mà là do khiếp sợ. Nàng tưởng lệnh đã sẵn sàng được thi hành. Nàng nghĩ ông De Winter đã đẩy thời hạn ra đi lên sớm hơn. Nàng tưởng sẽ bị xử đi đày ngay tối nay. Trong giây lát nàng mất hết tinh thần, thì bất ngờ nàng lại nhận ra lệnh chưa mang chữ ký của một ai. Nỗi mừng vui khi phát hiện ra điều đó lớn đến nỗi nàng không thể che giấu nổi. - Phải, phải - Huân tước De Winter đã nhận thấy điều gì diễn ra trong nàng, ông nói - chưa mất hết cả đâu, một khi lệnh đó chưa được ký, người ta giơ ra là để dọa tôi, có thế thôi. Nhưng bà nhầm rồi, ngày mai, lệnh đó sẽ được gửi lên Huân tước De Buckingham. Ngày kia lệnh sẽ được gửi lại do chính tay Huân tước ký và đóng dấu, và hai bơn giờ sau, chính tôi sẽ đảm nhiệm bắt đầu thi hành lệnh đối với bà. Tạm biệt bà, đó là tất cả những gì tôi cẩn nói với bà. - Và tôi tôi sẽ trả lời ông rằng việc lạm dụng quyền hành, rằng việc đày ải một người dưới một cái tên giả định là một hành động đê tiện. - Bà có thích được treo cổ dưới cái tên thật hơn không, Milady? Bà biết đó, luật pháp nước Anh rất nghiêm khắc đối với việc bội ước trong hôn nhân, bà hãy giải thích thẳng thắn chuyện đó. Cho dù tên tôi hoặc đúng hơn là tên của anh tôi bị dính líu vào mọi chuyện đó, tôi cũng đành mang tiếng mang tai trong một vụ án công khai để đoán chắc tôi sẽ loại bỏ được bà. Milady không trả lời gì, nhưng nhợt nhạt như một cái thây ma. - Ồ, tôi biết bà thích viễn du hơn mà. Càng tốt, thưa bà. Một ngạn ngữ cổ nói rằng du hành rèn luyện tuổi trẻ. Thật tình tôi thấy dẫu sao bà cũng không nhầm, và sống vẫn tốt hơn. Chính vì lẽ đó mà tôi không lo bà vứt cái lệnh của tôi đi. Thôi hãy nghĩ tính toán lo chuyện năm silinh đi. Tôi tỏ ra hơi bủn xỉn, có phải không? Cái đó chẳng qua là tôi lo xa bà sẽ làm bọn coi giữ sa đọa thôi. Hơn nữa, bà vẫn luôn còn duyên sắc để cám dỗ họ kia mà. Bà hãy đem nó ra dùng nếu sự thất bại của bà với Feltơn không làm bà tởm lợm những toan tính loại ấy. "Felten không hề nói gì - Milady tự nhủ - Thế là chưa có gì nguy cả". - Và bây giờ, hẹn gặp lại bà. Ngày mai tôi sẽ đến báo cho bà biết giờ khởi hành của phái viên của tôi. Ông De Winter đứng lên, châm biếm chào Milady và đi ra. Milady thở phào. Nàng vẫn còn bốn ngày nữa, bốn ngày đủ để nàng hoàn tất việc quyến rũ Felten. - Tuy nhiên một ý nghĩ khủng khiếp đến với nàng, đó là nhỡ ông De Winter sai chính Felten đi để lấy chữ ký của Buckingham, như thế thì Felten sẽ tuột khỏi tay nàng, muốn thành công, nữ tù nhân phải có ma thuật để tiếp tục cám dỗ. Tuy nhiên, một điều làm nàng yên tâm: Felten không nói gì. Nàng không muốn tỏ ra xúc động trước những lời hăm dọa của Huân tước De Winter, liền ngồi vào bàn và ăn. Rồi, như đã làm bữa trước, nàng lại quỳ xuống và nhắc lại thật to những câu nguyện cầu của mình. Như bữa trước, người lính thôi đi lại và dừng chân để lắng nghe. Lát sau, nàng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng hơn của tên lính tuần canh từ cuối hành lang đi đến và dừng lại trước cửa. - Chính gã rồi! - Nàng nói. Và nàng lại bắt đầu vẫn cái tiếng hát thánh ca bữa trước đã làm Felten phấn khích tới cao độ. Nhưng, cho dù cái giọng hát êm dịu, tràn đầy và vang động có ngân lên du dương hơn, não lòng hơn bao giờ hết, cửa vẫn cứ đóng. Liếc nhìn trộm về phía ô cửa nhỏ, qua tấm lưới sắt đan dầy, Milady hình như thấy đôi mắt nồng cháy của chàng trai trẻ. Nhưng dù đó là một thực tế hay một ảo ảnh, lần này, gã ta cũng giữ được nghị lực để không đi vào. Có điều, vài phút sau khi nàng đã hát xong thánh ca Milady tin rằng đã bắt gặp một tiếng thở dài não ruột. Rồi vẫn những bước chân đã lại gần lại xa dần một cách từ từ như vẫn còn lưu luyến. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:48 | |
| Chương 55
Ngày thứ tư bị giam cầm. Hôm sau, khi Felten vào phòng Milady, thì thấy nàng đang đứng trên chiếc ghế bành, tay cầm một chiếc thừng bện lại bằng mấy chiếc khăn tay lanh xé ra làm nhiều mảnh dài và nối với nhau. Nghe tiếng Felten mở cửa, Milady nhẹ nhàng nhẩy từ trên ghế xuống đất và cố tình che giấu chiếc thừng ứng biến vẫn cầm trong tay ra đằng sau. Chàng thanh niên còn xanh xao hơn mọi khi, mắt đỏ lên vì mất ngủ, chứng tỏ anh ta đã trải qua một đêm quằn quại. - Tuy nhiên vẻ mặt anh ta lại nghiêm trang một cách khắc nghiệt hơn bao giờ hết. - Anh ta từ từ tiến lại Milady lúc này đã ngồi xuống, cầm lấy đầu sợi dây tết chết người kia do vô tình hay cố ý nàng để hở ra. - Cái này là cái gì, thưa bà? - Chàng ta lạnh lùng hỏi. - Cái này, chẳng là cái gì - Milady vừa nói vừa mỉm nụ cười mà nàng khéo biết cách làm cho nó có dáng dấp đau đớn - Sự phiền muộn là tử thù của các tù nhân, tôi buồn phiền nên tết chiếc thừng này để lấy vui thôi. Felten đưa mắt nhìn về phía tường nhà, trước tường, chàng ta thấy vừa rồi Milady đứng trên ghế bành và bây giờ đang ngồi, và phía trên đầu nàng, thấy một chiếc móc mạ vàng gắn vào tường dùng để treo quần áo hoặc vũ khí. Chàng giật mình và nữ tù nhân nhìn thấy cái giật mình đó, bởi cho dù đã cúp cuống, nhưng không gì thoát khỏi mắt nàng. - Bà đứng trên ghế định làm gì? - Chàng ta hỏi. - Can gì đến ông? - Milady trả lời. - Nhưng - Felten vẫn nói - tôi muốn biết. - Xin đừng căn vặn tôi - nữ chủ nhân nói - Ông thừa biết với những tín đồ đích thực như chúng ta, thì cấm không được nói dối. - Thế thì? - Felten nói - Tôi sẽ nói cho bà vậy, việc bà định làm, hay đúng hơn là bà sắp làm, là bà định kết thúc cái việc làm tai hại vẫn được bà nuôi dưỡng trong đầu - Bà hãy nghĩ kỹ đi. Nếu Chúa cấm dối trá, người còn cấm tự vẫn ngặt hơn. - Khi Chúa thấy một trong sinh linh do Người sáng tạo bị ngược đãi bất công, bị đặt giữa tự vẫn và sự ô danh, xin ông hãy tin tôi - Milady bằng giọng của niềm tin sâu sắc - Chúa sẽ tha thứ cho nó việc tự vẫn, bởi vì lúc đó tự vẫn chính là tuẫn đạo. - Bà lại nói quá lời hoặc quá ít rồi. Bà hãy nhân danh Chúa mà nói, hãy giải thích rõ ra. - Tôi kể cho ông nghe những nỗi bất hạnh của tôi, để ông lại bảo đó là những chuyện bịa ư? Tôi nói cho ông hay những dự định của tôi để ông đi tố cáo với kẻ ngược đãi tôi ư, không đâu thưa ông. Vả lại sự sống hay cái chết của một kẻ khốn nạn bị kết án thì can gì đến ông? Ông chỉ chịu trách nhiệm về phần xác của tôi thôi, phải thế không? Thế thì miễn là ông có trình một xác chết và người ta nhận ra là xác tôi, người ta sẽ chẳng đòi hỏi gì hơn ở ông và có thể, ông còn được thưởng gấp đôi là khác. - Tôi ư, thưa bà, tôi ư? - Felten kêu lên - Bà nghĩ tôi lại đi nhận tiền thưởng về sinh mạng bà ư? Ồ, bà không nghĩ như bà nói đâu. - Cứ để mặc tôi, ông Felten, xin để mặc tôi - Được thể, Milady càng hăng máu - Mọi quân nhân chắc đều đầy tham vọng, có phải không? Ông là trung úy chứ gì? Ông sẽ đi theo đám tang tôi với quân hàm đại úy. - Nhưng tôi đã làm gì nào - Felten núng thế nói - để bà gán cho tôi một trách nhiệm như thế trước con người và trước Chúa? Mấy ngày nữa thôi bà là đã ra khỏi đây, cuộc sống của bà sẽ không còn dưới sự canh giữ của tôi nữa - chàng thở dài nói thêm - Lúc đó bà muốn làm gì tùy bà. Milady hét lên như thể không chống lại được một sự phẫn nộ thiêng liêng: - Thế nghĩa là, ông một người sùng đạo, một người mà người ta gọi là một người công minh chính trực, ông chỉ yêu cầu một điều là không hề bị quy kết và ân hận gì về cái chết của tôi! - Tôi phải trông coi đến tính mạng của bà, và tôi sẽ phải làm như thế. - Nhưng ông có hiểu cái nhiệm vụ mà ông làm tròn không? - Nếu tôi phạm tội thật, thì thế cũng là tàn nhẫn rồi, nhưng nếu tôi vô tội thì ông sẽ gọi nó là cái nhiệm vụ gì. Chúa sẽ đặt cho nó cái tên gì? - Tôi là quân nhân, thưa bà, và tôi phải hoàn thành những mệnh lệnh được giao. - Ông có tin tới ngày phán xử cuối cùng Chúa sẽ phân ra những tên đao phủ mù quáng với những quan tòa tối bất công không? Ông không muốn tôi tự giết chết phần thể xác mình, nhưng ông lại tự biến mình thành tay chân của kẻ muốn giết chết linh hồn tôi! - Nhưng tôi xin nhắc lại với bà - Felten nao núng nhắc lại - không có mối hiểm nguy nào đe dọa bà, và tôi xin đảm bảo điều ấy nhân danh ông De Winter cũng như bản thân tôi. - Mất trí rồi! - Milady hét lên - Hỡi con người mất trí đáng thương, dám đảm bảo nhân danh một người khác trong khi những bậc đại hiền triết, những người gần Chúa nhất cũng phải do dự đảm bảo cho chính bản thân mình và con người ấy lại tự xếp mình vào phe phái kẻ mạnh nhất, sung sướng nhất để đè nén người đàn bà yếu đuối nhất và bất hạnh nhất? - Không thể thế, thưa bà, không thể thế - Felten lẩm bẩm, trong thâm tâm cảm thấy lập luận của nàng có phần đúng lý - Là tù nhân, bà sẽ không tìm lại được tự do thông qua tôi, là người còn sống không phải do tôi mà bà sẽ mất mạng. - Phải - Milady kêu lên - Nhưng tôi sẽ mất những gì quý giá nhất đời tôi, tôi sẽ mất danh dự, ông Felten ạ. Và chính ông, tôi sẽ buộc ông phải chịu trách nhiệm trước Thượng đế và trước nhân loại về sự hổ nhục và sự đê mạt của tôi. Lần này, Felten, vốn hoàn toàn sắt đá hoặc làm ra như thế, không thể cưỡng nổi cái ảnh hưởng thầm kín đã xâm chiếm bản thân mình. Nhìn người đàn bà quá đẹp, trong trắng như một ảo ảnh thuần khiết, nhìn nàng hết than khóc lại hăm dọa đứng trước nỗi đau dâng lên cùng sắc đẹp, tất cả trở thành quá sức đối với một kẻ không thực tế, quá sức đối với một khối óc mỏi mòn dần vì những cơn mơ nồng cháy của sự chân thành mê muội, quá sức đối với trái tim bị ăn mòn vừa bởi tình yêu Thượng đế đang ngùn ngụt, vừa bởi hận thù con người đang vò xé. Milady nhìn thấy sự rối loạn ấy, bằng trực giác, nàng cảm thấy ngọn lửa của những đam mê đối lập nhau đang bùng cháy cùng với máu trong huyết quản chàng thanh niên cuồng tín. Và như một tướng tài, thấy kẻ thù chuẩn bị lùi bước, liền tién tràn lên và hô vang chiến thắng, nàng liền đứng dậy, đẹp như nữ tu sĩ thời tiền sử, gợi cảm như một nữ tín đồ đồng trinh, cánh tay dang ra, cổ phơi trần, tóc xõa ra, một tay e lệ kéo áo lên che ngực, cái nhìn lấp lánh ngọn lửa đã gây nên sự rối loạn tâm thần của gã trai Thanh giáo. Nàng tiến lại phía gã, cất lên với một vẻ dừ dội cái giọng vốn rất dịu dàng nhưng trong trường hợp này, nàng đem lại cho nó một âm sắc khủng khiếp: "Nộp nạn nhân cho Baal đi!(1) Cứ ném cho sư tử người tuẫn đạo Chúa sẽ làm cho ngươi phải ăn năn Từ vực thẳm ta kêu lên với Chúa". Felten dừng lại trước đoạn thơ kêu gọi kỳ dị này và như hóa đá. - Bà là ai, bà là ai? - chàng ta chắp hai tay và kêu lên - bà là sứ giả của Thượng đế hay là tay sai của Diêm vương, bà là thiên thần hay quỷ sứ, bà tên là Êlôa hay Átxtáctê(2). - Felten, anh không nhận ra em ư? Em không phải là thiên thần, cũng không phải quỷ sứ, em là một cô gái trên trần thế, em là cô em gái có cùng tín ngưỡng với anh, có thế thôi. - Phải, phải - Felten nói - Trước tôi còn ngờ, giờ tôi tin rồi. - Anh tin, thế mà anh lại là kẻ đồng lõa của đứa con của Bêlian mà người ta gọi là Huân tước De Winter! Anh tin, thế mà anh lại bỏ mặc em trong tay kẻ thù của em, và kẻ thù của nước Anh, kẻ thù của Chúa! Anh tin, thế mà anh giao nộp em cho kẻ đang làm nhơ bẩn và tràn ngập thế giới lý thuyết tà giáo và những sự đồi trụy của hắn, nộp em cho tên Xácđanapan(3) đê tiện mà kẻ đui mù gọi hắn là Quận công De Buckingham còn các tín đồ thì gọi là tên phản Chúa. - Tôi, nộp bà cho Buckingham ư? Tôi ư? Bà nói gì vậy? - Chúng có mắt mà như mù, có tai mà như điếc. - Phải, phải - Felten vừa nói vừa đưa tay lau mồ hôi trên trán như để dứt hẳn mối nghi ngờ cuối cùng - Phải, tôi nhận ra giọng nói, nói với tôi trong những giấc mơ, phải, tôi nhận ra những nét vẻ của vị thiên thần hiện ra đêm đêm kêu gọi linh hồn không thể ngủ của tôi: "Hãy tấn công, hãy cứu lấy nước Anh, cứu lấy bản thân, bởi ngươi có chết cũng không làm Thượng đế nguôi giận!". Nói đi, nói nữa đi! - Felten kêu lên - Bây giờ tôi có thể hiểu được bà rồi. Một ánh chớp vui sướng khủng khiếp, nhưng nhanh như ý nghĩ, lóe ra trong đôi mắt của Milady. Cho dù cái ánh mắt sát nhân đó có vụng trộm đến đâu chăng nữa, Felten cũng thấy và giật mình như thể ánh mắt đó soi sáng những vực thẳm sâu trong trái tim người đàn bà này. Felten chợt nhớ lại những lời cảnh cáo của Huân tước De Winter, những cám dỗ của Milady, những toan tính đầu tiên của nàng từ khi anh ta mới tới. Anh ta lùi lại một bước và cúi đầu, nhưng vẫn không ngừng nhìn nàng, như thể bị thôi miên bởi cái sinh linh kỳ lạ này, ánh mắt anh ta không thể tách ra khỏi mắt nàng. Milady đâu phải hạng đàn bà bị nhầm lẫn trước sự phân vân đó. Dưới những xúc động bề ngoài, không bao giờ thiếu vắng sự bình tĩnh lạnh như băng. Trước khi Felten trả lời nàng, nàng buộc phải nối lại cuộc nói chuyện khó có thể cứ giữ mãi cái giọng điệu phấn khích trước nữa, nàng liền buông thõng hai cánh tay và thế là sự yếu đuối của đàn bà lại vượt lên trên sự bồng bột của con người đa cảm. - Ồ không - Nàng nói - Tôi đâu được như Judita đã giải phóng thành phố Bêthuli khỏi tay tên Hôlôphecnơ(4). Thanh kiếm của Thượng đế vĩnh hằng quá nặng đối với cánh tay tôi. hãy cho tôi được chết để tránh khỏi mất danh dự. Hãy cho tôi được ẩn náu trong việc tuẫn đạo. Tôi không xin ông được tự do như một tội phạm thường làm, cũng không xin được trả thù như một kẻ tà đạo vẫn xin. Xin hãy để tôi được chết, thế thôi. Tôi van ông, tôi quỳ xuống cầu xin ông hãy để tôi được chết, và hơi thở cuối cùng của tôi sẽ là một lời cầu phúc đối với cứu tinh của tôi. Trước giọng nói dịu dàng và cầu khẩn ấy, trước cái nhìn e lệ và thất vọng ấy, Felten bước lại gần. Mụ phù thủy, dần dần, lấy lại được và khoác cho mình cái bộ dạng ma quái, tạm rời bỏ có chủ định, nghĩa là sắc đẹp, sự dịu dàng, nước mắt và nhất là nét hấp dẫn không cưỡng nổi của cái khoái cảm huyền bí là thứ khó cưỡng nổi nhất, day dứt nhất, trong các thứ khoái cảm. - Than ôi! - Felten nói - Tôi chỉ có thể làm được một điều là khiếu nại cho bà nếu bà chứng minh cho tôi rõ bà là một nạn nhân. Nhưng ông De Winter lại oán hận bà rất dữ. Bà là con chiên, bà là giáo hữu của tôi, tôi cảm thấy bị bà lôi cuốn, tôi là người xưa nay chỉ yêu quý ân nhân của mình, và chỉ gặp trong đời những quân phản trắc và lũ vô đạo. Nhưng bà, bà quá đẹp trong thực tế, bà quá trong trắng ở vẻ bề ngoài, mà Huân tước De Winter lại truy đuổi bà đến thế, ắt hẳn bà đã phạm những chuyện bất chính? - Chúng có mắt - Milady nhắc lại bằng giọng điệu đau khổ khôn tả - mà như mù, chúng có tai mà như điếc. - Thế thì - Viên sĩ quan trẻ kêu lên - Bà nói đi, nói đi xem nào! - Thổ lộ với ông nỗi nhục của tôi ư? - Milady kêu lên, mặt đỏ bừng vì thẹn - bởi vì thường thường tội ác của kẻ này lại là nỗi nhục của người khác, thổ lộ với ông nỗi ô nhục của tôi, khi ông là đàn ông còn tôi là đàn bà ư? - Ồ - nàng vừa tiếp tục vừa e lệ lấy tay đưa lên đôi mắt đẹp - Ồ, không bao giờ, không bao giờ, tôi không thể. - Không thể với tôi ư? Với một đạo hữu ư? - Felten hét lên. Milady nhìn chàng ta khá lâu với vẻ mặt khiến viên sĩ quan trẻ coi là ngờ vực, nhưng thật ra chỉ là quan sát và nhất là để khuynh đảo chàng. Felten đến lượt mình chắp hai tay khẩn cầu. - Thôi được? - Milady nói - Tôi tin người anh em của tôi. Tôi sẽ liều vậy! Trong lúc đó, có tiếng bước chân của Huân tước De Winter. Vậy là lần này người em chồng ghê gớm của Milady không chịu bỏ đi, sau khi đến ngang trước cửa như đêm trước, mà lại dừng lại ngang trước cửa như đêm trước, mà lại dừng lại trao đổi mấy câu với người lính canh, rồi cửa mở và ông ta hiện ra. Trong khi ông ta trao đổi mấy câu, Felten đã vội lùi lại và khi ông ta vào thì chàng ta đã đứng cách xa nữ tù nhân mấy bước. Nam tước từ từ bước vào, đưa con mắt dò xét hết nữ tù nhân sang đến viên sĩ quan trẻ, và nói: - John! Thế là ông ở đây khá lâu đấy nhỉ. Người đàn bà đó đã kể cho ông nghe những tội ác của bà ta rồi đấy nhỉ? Thảo nào chuyện trò lâu đến thế. Felten rùng mình. Còn Milady cảm thấy mình nguy mất nếu không cứu anh chàng thanh giáo đang thất sắc kia. - À, ông sợ nữ tù nhân của ông trốn thoát khỏi ông? - Nàng nói - Vậy thì, ông cứ hỏi viên giám ngục quý hóa của ông ngay lúc này xem tôi khẩn cầu ông ta ân huệ gì. - Bà xin một ân huệ? - Huân tước hỏi với vẻ ngờ vực. - Vâng, thưa Huân tước - chàng trai trẻ bối rối trả lời. - Và ân huệ gì? - Ông Winter hỏi. - Con dao - Felten trả lời - Một phút sau khi nhận được bà ấy sẽ trả lại tôi qua ô cửa có lưới sắt. Huân tước De Winter hỏi tiếp bằng một giọng cợt nhạo và khinh bỉ: - Vậy ra có kẻ nào đó ẩn nấp ở đây nên con người yêu kiều này muốn cắt cổ! - Có tôi đấy - Milady trả lời. - Tôi đã cho bà được chọn giữa châu Mỹ và Tybum (pháp trường London). - Ông De Winter nói tiếp - Bà hãy chọn Tybum đi, hãy tin tôi, thừng ở đấy còn chắc hơn dao. Felten tái người bước lên một bước, nghĩ tới lúc mình bước vào Milady đang cầm thừng. Người tù nói: - Ông có lý. Và tôi đã nghĩ đến điều đó rồi - Rồi nàng tiếp bằng một giọng như tắc lại - Tôi sẽ còn nghĩ đến điều ấy. Felten cảm thấy ớn lạnh đến tận xương tủy, có thể ông De Winter nhận ra thấy điều đó. Ông nói: - John, hãy cảnh giác, anh bạn ạ, ta tin cậy ở anh, anh hãy coi chừng? Ta đã báo trước cho anh rồi! Vả lại, hãy can đảm lên, chú em ạ, ba hôm nữa thôi là chúng ta được giải thoát khỏi con quái vật này và ở nơi ta gửi nó đến, nó sẽ không hại được ai nữa. - Nghe thấy chưa? - Milady hét to. Ông Huân tước tưởng rằng nàng nói với trời, còn Felten lại hiểu là nói với mình. Felten cúi đầu và mơ màng. Nam tước vừa nắm cánh tay kéo viên sĩ quan vừa ngoái cổ lại để không rời mắt khỏi Milady cho tới khi đã ra hẳn ngoài. Khi cửa đã đóng lại, nữ tù nhân nói một mình: "Xem nào, mình còn chưa tiến tới mức như mình tưởng, Winter đã thay đổi cách ngốc nghếch thường ngày của ông ta bằng một sự thận trọng mới lạ, lòng khao khát trả thù nó là như thế đó. Và cái lòng khao khát ấy nó lại rèn luyện con người ta? Còn Felten, gã ngần ngại. Hừm, đó không phải là một đấng mày râu như tên D Artagnan khốn kiếp. Một gã Thanh giáo chỉ tôn thờ những nữ đồng trinh và chắp hai tay lại mà tôn thờ họ. Một ngự lâm quân lại thích những người đàn bà và khoanh tay yêu họ. Tuy nhiên, Milady vẫn sốt ruột đợi chờ, bởi nàng vẫn ngờ rằng ngày hôm nay không thể trôi qua mà nàng lại không gặp lại Felten. Cuối cùng, một giờ sau cảnh tượng đó, nàng nghe thấy tiếng nói khẽ ngoài cửa, rồi thì cửa mở và nàng nhận ra Felten. Nàng nói: - Ông muốn gì tôi? - Nghe đây - Felten khẽ trả lời - Tôi vừa đuổi tên lính canh đi để có thể ở lại đây mà người ta không biết tôi đến, để nói với bà mà người ta không nghe được điều tôi nói. Huân tước vừa kể cho tôi nghe một chuyện rùng rợn. Milady nặn ra một nụ cười của nạn nhân chịu oan ức và lắc đầu. - Hoặc bà đúng là một con quỷ - Felten tiếp tục - Hoặc Huân tước ân nhân của tôi, cha tôi là yêu tinh - Tôi mới biết bà được bốn ngày, tôi yêu ông ấy đã hai năm - Vậy tôi có thể phân vân giữa hai người lắm chứ. Bà đừng hoảng sợ về những điều tôi nói với bà. Tôi cần được tin chắc. Đêm nay, sau nửa đêm, tôi sẽ đến gặp bà, và bà sẽ làm cho tôi tin. - Không, Felten, không, người anh em ạ - Nàng nói - Sự hy sinh này lớn quá, và tôi cảm thấy nó quá đắt với ông. Không, tôi sẽ chết, nhưng đừng chết với tôi. Cái chết của tôi sẽ hùng hồn hơn cái sống của tôi nhiều và sự câm lặng của thây ma sẽ làm ông tin hơn nhiều những lời nói của một nữ tù nhân. - Bà im đi và đừng nói với tôi như thế. Tôi đến đây để bà hứa danh dự với tôi, để bà thề với tôi trên những gì thiêng liêng nhất rằng bà sẽ không mưu hại đời bà. - Tôi không muốn hứa - Milady nói - bởi không ai hơn tôi lại tôn trọng lời thề và nếu tôi đã hứa, thì tôi sẽ phải giữ lời. - Vậy thì bà chỉ cam đoan thôi bà sẽ giữ như thế cho đến lúc gặp lại tôi vậy. Nếu khi bà đã gặp lại tôi bà vẫn khăng khăng như thế, thì, được thôi, bà sẽ tự do và chính tôi, tôi sẽ đưa cho bà vũ khí mà bà yêu cầu tôi. - Thế thì… - Milady nói - Vì ông, tôi sẽ đợi. - Bà thề đi. - Tôi xin thề trước đức Chúa của chúng ta. Ông bằng lòng chưa? - Tốt lắm - Felten nói - Hẹn đêm nay! Và chàng ta lao ra khỏi căn phòng rồi đóng cửa lại và đợi ở bên ngoài, tay cầm ngọn đoản giáo của tên lính như thể đang đứng gác thay. Người lính quay lại, Felten trả lại ngọn giáo cho anh ta. Lúc đó, qua ô lưới cửa, mà nàng đã lại gần, Milady thấy chàng trai trẻ đang say sưa cuồng nhiệt làm dấu rồi theo hành lang đi khỏi với vẻ mừng vui đến tột đỉnh. Về phần nàng, nàng quay lại chỗ mình ngồi với nụ cười man rợ khinh bỉ trên môi, rồi nàng vừa nhắc lại vừa báng bổ cái tên đáng sợ là Chúa mà nàng đã thề trên đó, mà chẳng bao giờ cần biết nó là cái gì. - Chúa tôi ư? - Nàng nói - Hỡi tên cuồng tín rồ dại! Chúa tôi! Đấy là ta, chính ta là người sẽ giúp ta trả thù. Chú thích: (1) Baal (hay Bél hay Bélus Belial), thần linh xứ Phênixi (2) Êlôa - Bài thơ cùng tên của nhà thơ A. Đờvinhy. Trong đó Êlôa là một nữ thần được sinh ra từ giọt nước mắt của Chúa trên thi thể của Larazus. Nàng bị giết vì tội cố ý dùng tiền chuộc lại Satan và Átxtáctê. Được dùng để chỉ những nữ thánh theo tà đạo. Átxtáctê nữ thánh Do Thái được tôn vinh vì hiến tế. (3) Theo dã sử, là một hoàng tử đồi trụy, hèn nhát và yếu ớt, ẻo lả. (4) Judita - nữ anh hùng Do Thái đã quyến rũ tưởng địch Hôlôphécnơ, rồi chặt đầu y và giải phóng thành phố Béthulie |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:49 | |
| Chương 56
Ngày thứ năm bị giam cầm. Tuy nhiên Milady cũng đã đạt được một nửa thắng lợi và kết quả thu được đã làm tăng sức mạnh của nàng lên gấp bội. Cho đến lúc này, nàng đã chinh phục như thế không khó khăn gì những người đàn ông dễ buông thả cho nàng cám dỗ và bị lối giáo dục phong trình của triều đình lôi nhanh vào bẫy. Milady lại khá đẹp nên họ khó cưỡng lại được sự thèm muốn về phần xác thịt và nàng cũng khá khôn ngoan để lôi cuốn họ vượt qua những trở ngại về tinh thần. Nhưng lần này, nàng phải đấu tranh với một bản tính hoang dã, nén chịu, vô cảm vì quá khắc khổ. Tôn giáo và sự ăn năn đã biến Felten thành một kẻ trơ trơ trước những quyến rũ thông thường. Trong cái đầu đang bốc đồng ấy, những chương trình rộng lớn, những dự tính hỗn loạn đang quay cuồng đến nỗi không còn chỗ cho bất cứ mối tình nào. Đó là thứ tình cảm thất thường hoặc vốn đã như thế, tự dưỡng bằng nhàn hạ và lớn lên bởi sự đồi trụy. Vậy là Milady bằng sự đạo đức giả, đã đột phá được vào tư tưởng của một gã đàn ông đã được phòng ngừa trước kịch liệt chống lại nàng, và bằng sắc đẹp, nàng đã đột phá được vào trái tim và tình cảm của một người đàn ông trinh trắng và trong sạch. Rốt cuộc, nàng đã lao theo những biện pháp, những thủ đoạn cho đến nay vẫn còn xa lạ với nàng, cho cuộc thí nghiệm tiến hành trên một chủ thể bất trị nhất mà tạo hóa và tôn giáo đành để nàng nghiên cứu. Thế nhưng suốt buổi tối, nhiều lần nàng đã thấy thất vọng về số phận và bản thân mình. Nàng không kêu cầu Chúa, nhưng lại tin ở thần ác, cái quyền lực tối cao bao la ngự trị trong một ngóc ngách của cuộc sống, và như trong ngụ ngôn Ả Rập, chỉ một hạt lựu cho cái quyền lực ấy cũng đủ để xây dựng lại một thế giới đã mất. Milady sau khi đã chuẩn bị rất cẩn thận để tiếp Felten, tha hồ vạch ra những kế hoạch cho ngày hôm sau. Nàng biết mình chỉ còn có hai ngày, một khi lệnh đã được Buckingham ký và Buckingham lại càng ký quá dễ dàng cái lệnh mang một tên giả và ông ta cũng chẳng thể nhận ra người đàn bà đang định giết mình. Một khi lệnh đã ký, Huân tước sẽ đưa nàng lên tàu ngay tức khác, và nàng cũng biết những người đàn bà bị tội lưu đày sử dụng vũ khí quyến rũ yếu hơn những người được cho là đức hạnh, lại được mặt trời thế gian làm rạng rỡ thêm sắc đẹp, cùng giọng nói kiểu cách phô trương dòng dõi, và ánh xạ quý tộc nạm vàng thêm những tia sáng mê hồn của họ. Một người đàn bà bị tội hình khốn nạn và đê nhục không phải ở chỗ bị ngăn không cho đẹp, mà luôn có một trở ngại để không bao giờ lại trở nên mạnh mẽ. Như những người thực sự có tài, Milady hiểu rõ môi trường nào thì thích hợp với bản chất và những thủ đoạn của mình. Sự nghèo khó làm cho nàng thấy ghê tởm. Sự hèn hạ làm giảm hai phần ba sự vĩ đại của nàng. Milady chỉ là nữ hoàng trong số các nữ hoàng. Nàng cần phải có khoái lạc, lòng kiêu hãnh được thỏa mãn trong khi trị vì. Điều khiển những kẻ thấp kém hơn đối với nàng là một sự sỉ nhục hơn là một khoái lạc. Chắc chắn nàng sẽ trở lại từ chốn lưu đày, không một phút giây nào nàng nghi ngờ điều đó. Nhưng cuộc lưu đầy này sẽ kéo dài bao lâu? Đối với một bản tính năng động và đầy tham vọng như Milady, những ngày mà người ta không thiết gì ngoi lên nữa là những ngày tệ hại. Vậy thì hãy tìm xem có cái từ nào để đặt tên cho những ngày mà người ta dùng để tụt xuống hay không? Mất một năm, hai năm, ba năm, có nghĩa là vĩnh viễn. Trở về khi D Artagnan và các bạn mình sung sướng và chiến thắng, đón nhận phần thưởng của hoàng hậu, xứng với công lao họ đã phục vụ bà ta, đó là những ý nghĩ vò xé mà một người đàn bà như Milady không thể chịu nổi. Hơn nữa, cơn giông tố gầm thét trong lòng nàng làm tăng gấp đôi sức mạnh, nếu như thể xác nàng có được một giây lát thôi cái sức vóc của trí tuệ nàng, có lẽ nàng đã cho nổ tung những bức tường của cái phòng tù giam nàng này rồi. Rồi giữa mọi cái đó lại còn kỷ niệm về Giáo chủ cũng thôi thúc nàng. Ông Giáo chủ đa nghi cả nghĩ và luôn ngờ vực đó nghĩ gì, nói gì về sự im lặng của nàng. Giáo chủ, chỗ dựa duy nhất của nàng, người duy nhất ủng hộ nàng, người che chở duy nhất cho nàng trong hiện tại, mà còn là công cụ chính của vận mệnh nàng và sự báo thù của nàng trong tương lai. Nàng hiểu ông ta. Nàng biết rằng khi trở về, sau một cuộc hành trình vô ích, nàng có đổ cho việc vì tù tội, có khoa trương thêm những đau khổ phải chịu cũng chỉ vô ích, Giáo chủ sẽ trả lời với vẻ dửng dưng giễu cợt của kẻ theo chủ nghĩa hoài nghi đầy quyền lực vừa bởi sức mạnh lẫn thiên tài: "Không nên để bị bắt mới phải?". Thế là Milady liền dồn hết nghị lực lại thầm gọi trong thâm tâm cái tên Felten, thứ ánh sáng mặt trời duy nhất còn lọt được tới nàng ở đáy địa ngục nơi nàng đã sa xuống. Và giống như một con rắn cuộn lại các đốt thân rồi duỗi ra etể tự lường sức mình, nàng đã cuộn trước Felten vào hàng ngàn các nếp gấp của trí tưởng tượng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, thời gian trôi đi, giờ này. qua giờ khác lại nhừ đánh thức cái chuông khi đi qua và mỗi tiếng nện vào đồng thau lại ngân vang trong lòng nữ tù nhân. Lúc chín giờ, Huân tước De Winter lại đến thăm như thường lệ, nhìn cửa sổ và song sắt, dò xét sàn nhà và tường bao, kiểm tra lò sưởi và các cửa đi, và trong suốt cuộc thăm viếng lâu dài và tỉ mỉ đó, cả ông lẫn Milady không thốt lên một lời nào. Chắc hẳn cả hai đều hiểu tình thế đã trở nên quá nghiêm trọng, không nên để mất thời gian vào những câu nói vô ích và giận dữ vô hiệu quả. - Tốt rồi! - Huân tước rời khỏi căn phòng và nói - Đêm nay thì bà chưa trốn thoát được đâu? Lúc mười giờ Felten tới xếp lính canh. Milady nhận ra bước chân chàng ta. Lúc này nàng đoán ra được bước chân của chàng ta như một tình nương đoán được bước chân của người tình mình yêu bằng hết con tim, trong khi ấy Milady vừa ghét vừa khinh kẻ cuồng tín hèn yếu đó, chưa đến giờ hẹn, Felten không vào. Hai giờ sau, chuông điểm nửa đêm, lính canh được thay phiên. Lần này là đúng giờ rồi. Vì thế, từ lúc ấy, Milady nóng lòng mong đợi. Người lính canh mới bắt đầu đi dạo trong hành lang. Mười phút sau, Felten đến. Milady lắng tai nghe. - Nghe đây - viên sĩ quan trẻ bảo người lính canh - bất cứ chuyện gì, anh cũng không rời xa chiếc cửa này, bởi anh cũng biết đêm trước một lính canh đã bị Huân tước phạt vì đã rời vị trí trong giây lát, và trong khi ấy chính tôi, trong lúc anh ta vắng mặt khoảng thời gian ngắn, đã phải gác thay. - Vâng, tôi biết - người lính nói. - Vậy tôi nhắc anh phải canh giữ cho nghiêm. Còn tôi, tôi sẽ vào kiểm tra lại lần nửa căn buồng của mụ đàn bà này, sợ rằng mụ vẫn toan tính tự hại mình và tôi được lệnh phải trông coi. - Tốt - Milady, lẩm bẩm - thế là tên Thanh giáo khắc kỷ đã nói dối rồi! Còn về người lính, anh ta cười trừ và nói: - Mẹ kiếp! Thưa trung úy. Ông không thấy khốn khổ khi được giao nhiệm vụ như thế sao, nhất là nếu Huân tước lại cho phép ông được nhòm vào tận giường mụ ta nữa. Felten đỏ mặt, trong trường hợp khác chắc chàng ta đã quở mắng người lính dám đùa cợt như vậy, nhưng ý thức của chàng lại lớn tiếng thầm thì khiến miệng chàng không dám nói. - Nếu tôi gọi - chàng ta nói - thì anh đến, còn nếu có ai đến, nhớ gọi tôi. - Vâng, thưa trung úy - người lính nói. Felten vào phòng Milady, Milady đứng dậy. - Ông đấy ư? - Nàng nói. - Tôi đã hứa với bà sẽ đến - Felten nói - và tôi đã đến. - Ông còn hứa với tôi một điều khác nữa. - Điều gì vậy? Chúa ơi! - Chàng trai trẻ nói và mặc dầu cố làm chủ mình chàng ta vẫn cảm thấy hai đầu gối cứ run lên và mồ hôi lấm tấm trên trán. - Ông đã hứa mang đến cho tôi con dao và sau khi chúng ta trao đổi hãy để mặc tôi. - Đừng nói thế, thưa bà - Felten nói - Không có cảnh ngộ nào dù cho có khủng khiếp đến đâu, cho phép một sinh linh của Chúa được tự giết mình. Tôi đã suy nghĩ, không bao giờ tôi cho phép mình phạm một tội như thế. - À, ông đã nghĩ rồi! - Nữ tù nhân vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế bành với nụ cười khinh thị - và tôi nữa, tôi cũng đã nghĩ rồi. - Đến điều gì? Nghĩ rằng tôi chẳng có gì để nói với một con người không giữ lời hứa. - Ôi, Chúa ơi! - Felten lẩm bẩm. - Ông có thể rút lui - Milady nói - tôi sẽ không nói nữa đâu. - Đây dao đây! - Felten nói và rút từ trong túi ra thứ vũ khí mà chàng ta đã hứa sẽ mang đến nhưng lại ngần ngại trao lại cho nữ tù nhân. - Đưa cho tôi xem đã. - Để làm gì? - Thề danh dự, tôi sẽ trả lại ông ngay tức khắc. Ông cứ để trên bàn ấy và ông vẫn sẽ đứng giữa con dao và tôi kia mà. Felten chìa con dao cho Milady. Nàng chăm chú quan sát nước thép và ướm thử mũi dao bằng đầu ngón tay. - Tốt lắm - nàng vừa nói vừa trả lại con dao cho viên sĩ quan trẻ - Con dao này toàn bằng thép tốt. Felten, ông đúng là một người bạn chung thủy. Felten cầm lại con dao và đặt nó lên bàn tay như vừa thỏa thuận với nữ tù nhân. Milady đưa mắt nhìn theo và tỏ ra hài lòng. Nàng nói: - Bây giờ, nghe tôi nói đây. Sự yêu cầu này là vô ích, viên sĩ quan trẻ đứng trước mặt nàng đang đợi nàng nói để ngốn ngấu từng lời. Milady nói với một vẻ trang trọng đầy sầu muộn: - Felten, nếu em gái ông, con gái của cha ông bảo ông: "Từ khi còn trẻ, lại không may khá đẹp, người ta đã cho em sa bẫy, em đã chống cự lại, người ta tăng gấp bội cạm bẫy và bạo lực xung quanh em, em vẫn chống lại, người ta liền lăng mạ tôn giáo em theo, lăng mạ đức Chúa em tôn thờ, bởi em cầu cứu đến đức Chúa và tôn giáo ấy, em chống lại, thế là họ thả sức làm nhục em, và vì họ không thể làm hại linh hồn em, họ định làm nhơ nhuốc thể xác em mãi mãi, rốt cuộc…" Milady dừng lại và một nụ cười cay đắng lướt trên môi. - Rốt cuộc - Felten nói – rốt cuộc họ đã làm gì em? - Rốt cuộc, một buổi tối, người ta quyết định làm tê liệt tinh thần phản kháng mà người ta không thể thắng được đó. Một buổi tối, người ta hòa vào nước uống của em một liều thuốc mê mạnh, em vừa ăn xong bữa cơm, đã cảm thấy mình dần dần rơi vào một trạng thái hôn mê xa lạ. Cho dù em chẳng một chút nghi ngờ, một nỗi sợ hãi mơ hồ vẫn xâm chiếm em, em cố chống lại cơn buồn ngủ, em đứng dậy, em muốn chạy đến cửa sổ kêu cứu nhưng chân em không chịu cất bước, em thấy hình như trần nhà hạ thấp xuống đầu em và đè nặng lên em. Em dang hai tay ra, em cố nói, em chỉ có thể thốt ra mấy tiếng ú ớ, toàn thân em tê dại không thể nào cưỡng nổi, em bíu vào chiếc ghế bành, cảm thấy mình sắp ngã, nhưng rồi cánh tay em rã rời không đủ sức vịn vào ghế nữa, em quỵ một gối xuống, rồi cả hai, em muốn cầu nguyện, lưỡi em đã cứng lại rồi. Hẳn là Chúa không trông thấy cũng không nghe thấy em, em nằm soài trên sàn nhà và làm mồi cho giấc ngủ mê như chết. Em không còn nhớ gì về tất cả những điều diễn ra trong giấc ngủ và giấc ngủ kéo dài trong thời gian bao lâu. Điều duy nhất em còn nhớ là khi tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn buồng tròn, đồ đạc sang trọng, và ánh sáng chỉ lọt vào qua lỗ cửa sát trần nhà. Vả chăng, hình như cũng chẳng có chiếc cửa ra vào nào. Có thể nói đây là một phòng tù lộng lẫy. Phải rất lâu, em mới có thể nhận ra mình đang ở đâu, và nhớ lại được mọi tình tiết. Đầu óc em như thể vật lộn một cách vô ích để xua đi những bóng tối nặng nề của giấc ngu mà em vẫn chưa thể dứt ra hẳn. Em có những cảm giác mơ hồ về quãng đường đã đi qua, về tiếng bánh xe lăn, về một giấc mơ rùng rợn trong đó sức lực em bị cạn kiệt, nhưng tất cả những cái đó đều quá mờ tối, quá lơ mơ trong ý nghĩ của em, cứ như thể những biến cố đó thuộc về một cuộc sống khác với cuộc sống của em, tuy nhiên lại hòa trộn vào cuộc sống của em bởi một tính nhị nguyên kỳ quặc. Đôi lúc, em ở trong trạng thái đến lạ lùng, em cứ tưởng như mình đang mơ. Em đứng lên lảo đảo, quần áo em ở ngay bên em, vắt lên thành ghế, em cũng chẳng nhớ mình đã cởi bỏ quần áo cũng chẳng nhớ việc mình đã nằm ngủ. Thế rồi dần dần thực tế hiện ra trước em đầy nỗi kinh hoàng về trinh tiết. Em không còn trong ngôi nhà em vẫn cư trú nữa. Cứ theo như ánh sáng mặt trời mà đoán, có thể ngày đã xế chiều, thế là em đã ngủ suốt cả tối hôm trước đến chiều hôm sau, gấâc ngủ kéo dài gần hai mươi bốn giờ. Cái gì đã diễn ra trong suốt giấc ngủ dài như thế? Em vội mặc quần áo nhanh chừng nào hay chừng ấy. Mọi cử động của em đều chậm chạp và tê cứng chứng tỏ ảnh hưởng của thuốc mê chưa hoàn toàn tan hết. Hơn nữa, căn buồng lại chỉ trang bị để tiếp nhận một phụ nữ, và cô gái ưa đỏm dáng nhất còn chưa kịp muốn gì, thì khi lướt mắt nhìn quanh căn phòng, đã thấy ước muốn ấy được hoàn tất rồi. Chắc chắn, em không phải là người con gái đầu tiên bị nhốt trong cái nhà tù tráng lệ này. Nhưng Felten, anh cũng hiểu, nhà tù càng đẹp, em càng hoang mang. Phải, đó là một cái nhà tù, bởi em càng cố thoát ra cũng vô ích. Em dò tìm cả bốn bức tường để phát hiện ra một chiếc cửa, cả bốn bức tường đều phát lại tiếng kêu bịch bịch chắc nịch. Em đi vòng quanh căn phòng có lẽ đến hai chục lượt để tìm một lối ra nào đó mà không có. Em buông mình xuống chiếc ghế bành, suy sụp vì mệt mỏi và hãi hùng. Trong khi đó đêm xuống rất nhanh, nỗi kinh hoàng của em càng tăng lên. Em không biết liệu có nên ngồi im ở đấy hay không, em thấy hình như em sắp ngã đến nơi. Cho dù em không ăn một chút gì từ đêm trước, nhưng vì quá sợ nên em cũng chẳng cảm thấy đói. Không có lấy một tiếng vang nào từ bên ngoài lọt vào khiến em tính được thời gian. Em chỉ đoán phỏng chừng có thể là bẩy hoặc tám giờ tối, bởi lúc đó là tháng mười nên đã tối hoàn toàn. Bất thình lình tiếng cánh cửa quay trên bản lề làm em giật mình, một quả cầu lửa hiện ra bên trên ô cửa kính sát trần, rọi ánh sáng chói chang vào phòng và em kinh hãi nhận thấy một người đàn ông đứng cách em mấy bước. Một bàn ăn đủ các món cho hai suất tối đã dọn sẵn như do ma thuật được kê ở giữa phòng. Người đàn ông đó là kẻ đã theo đuổi em từ một năm nay, đã thề làm nhục em và mấy câu đầu tiên từ cửa miệng hắn, em hiểu ngay hắn đã hoàn thành cái việc làm nhục em đêm trước. - Tên đê mạt! - Felten lẩm bẩm. - Ồ đúng, tên đê mạt! - Milady kêu lên và thấy rõ viên sĩ quan quan tâm đến câu chuyện ly kỳ này đến mức linh hồn như thể bị treo trên đầu lưỡi mất rồi - Đúng hắn là một tên đê mạt? - Hắn tưởng chỉ cần thắng được em trong giấc ngủ là xong được lời thề. Hắn đến, hy vọng em chấp nhận nỗi ô nhục của em, vì nỗi ô nhục ấy được làm tròn rồi. Hắn đến dâng tài sản của hắn cho em để đổi lấy tình yêu. Con tim cao thượng của người phụ nữ có thể khinh bỉ và miệt thị bao nhiêu, em đều trút lên đầu hắn. Nhưng chắc hắn đã quen bị trách mắng như thế bởi hắn vẫn thản nhiên nghe em, hai tay khoanh trước ngực mỉm cười. Rồi khi hắn tưởng em đã nói hết, hắn tiến lại phía em, em chồm lại cái bàn, cầm lấy con dao, dí vào ngực mình mà nói: "Tiến lên một bước thôi thì ngoài nỗi ô nhục của tôi, ông sẽ còn phải ân hận về cái chết của tôi nữa". Chắc là trong mắt em, giọng nói của em, trong toàn bộ người em, cử chỉ, tư thế, âm sắc đều toát lên vẻ chân thực khiến những kẻ có tà tâm nhất cũng phải tin, bởi hắn đã dừng lại và nói: "Cái chết của nàng ư? Ồ, không, nàng là một người tình yêu kiều nhất, ta lại chịu để chết đi như thế, sau khi mới chỉ được một lần có được cái hạnh phúc chiếm hữu nàng sao. Tạm biệt, giai nhân của ta! Ta sẽ đợi, tinh thần, tâm lý nàng khá hơn, ta sẽ trở lại thăm nàng". Nói rồi, hắn thổi một tiếng còi, quả cầu lửa chiếu sáng phòng em, nâng lên rồi biến mất, em lại hoàn toàn trong bóng tối. Một lát sau vẫn tiếng kẹt cửa đã mở ra nay lại đóng vào, và quả cầu sáng chói lại hạ xuống, em chỉ còn trơ lại một mình. Khoảnh khắc ấy thật ghê rợn, nếu như em còn đôi chút nghi ngờ về nỗi bất hạnh của mình, thì những nghi ngờ ấy đã tàn lụi trong một thực tế tuyệt vọng. Em đã ở trong tay một kẻ không những em ghét bỏ mà còn khinh bỉ nữa, một kẻ có khả năng làm tất cả mọi điều và đã từng chứng tỏ với em một cách tàn nhẫn những gì hắn có thể làm. - Nhưng cái con người ấy là kẻ nào vậy? - Felten hỏi. - Em ngồi suốt đêm trên cái ghế, nghe tiếng động nhỏ cũng giật mình, bởi gần nửa đêm, đèn tắt, em lại ngồi trong bóng tối nhưng rồi đêm qua đi không có thêm một toan tính mới nào của kẻ ngược đãi em nữa. Ngày lại tới. Chiếc bàn đã biến mất, có điều em vẫn còn con dao trong tay. Con dao, đó là niềm hy vọng của em. Em rã rời vì mệt mỏi. Sự mất ngủ làm mắt em đỏ lên, em lại không dám ngủ lấy một giây. Ban ngày làm em yên tâm, em chạy lại buông mình xuống giường không rời con dao giải thoát mà em giấu dưới gối. Khi em thức dậy, một bàn ăn mới đã được dọn ra. Lần này, mặc dầu bao nỗi hãi hùng, bất chấp những mối lo âu, em cảm thấy một cái đói cào cấu. Đã bốn tám giờ em không ăn một chút gì. Em ăn chiếc bánh, một ít trái cây, rồi lại nhớ đến thuốc mê hòa vào nước em uống hôm trước, em không động đến một giọt bày trên bàn nữa mà ra chỗ tắm rừa, rót đầy một cốc ở vòì nước đá hoa gắn ở tường. Tuy nhiên, mặc dầu đã đề phòng như vậy, em vẫn trong tình trạng lo ngại ghê gớm khá lâu, nhưng lần này những mối sợ đã không có cơ sở. Suốt ngày hôm ấy, em không thấy gì giống như em lo sợ. Em đã thận trọng đổ bớt nửa bình nước để họ không biết em nghi ngờ. Tối buông xuống cùng với bóng đêm, tuy nhiên, dù như bưng như bít, mắt em bắt đầu quen dần. Giữa bóng đêm em trông thấy chiếc bàn thụt sâu xuống dưới sàn, mười lăm phút sau nó lại hiện lên mang cho em bữa tối. Một lát sau vẫn nhờ cái đèn ấy, phòng em lại sáng choang. Em quyết định chỉ ăn những loại thức ăn mà người ta không thể trộn lẫn thuốc ngủ: hai quả trứng và ít trái cây là đủ bữa cơm cho em, rồi em lại rót một cốc nước ở cái vòi nước bảo trợ mà uống. Mấy ngụm đầu, em thấy nó không giống như vị ban sáng, em nghi ngờ ngay và dừng lại, nhưng em cũng đã uống mất nửa cốc rồi. Em đổ phần còn lại đi hãi hùng chờ đợi, mồ hôi vã ra trán. Chắc hẳn, có một nhân chứng vô hình đã nhìn thấy em uống nước ở chiếc vòi ấy và đã lợi dụng lòng tin của em để hại em cho em chắc chắn hơn, và kẻ đó đã quyết định một cách lạnh lùng, theo đuổi rất chi tàn bạo. Chưa được nửa giờ sau, vẫn những triệu chứng cũ lại xảy ra. Có điều, lần này em mới chỉ uống có nửa cốc nước, nên em chống lại được lâu hơn, và đáng lẽ hoàn toàn ngủ thiếp đi, em rơi vào tình trạng chập chờn thức tỉnh, vẫn cảm nhận được những gì diễn ra xung quanh em, nhưng không còn đủ sức để tự vệ hoặc chạy trốn nữa. Em lê người đến giường để tìm phương tiện bảo vệ duy nhất còn lại, đó là con dao cứu mạng. Nhưng em chỉ đến được đầu giường là quỵ gối xuống, hai tay em bám chặt lấy chân giường, thế là em hiểu rằng em nguy mất. Felten tái người một cách ghê rợn, một cơn run rẩy co quắp chạy khắp toàn thân. Milady tiếp tục, lạc giọng đi như thể vẫn còn cảm thấy mối lo trong cái khoảnh khắc hãi hùng đó: - Điều ghê rợn nhất là lần này em có ý thức về mối nguy đang đe dọa mình, là em có thể nói linh hồn mình vẫn thức trong cái thể xác đã ngủ thiếp, là em đã trông, đã nghe thấy, đúng là tất cả những cái đó như trong một cơn mơ, nhưng đó lại chỉ là một cơn mơ hãi hùng nhất. Em thấy ngọn đèn dâng lên rồi dần dần để em lại trong bóng tối, rồi em nghe thấy tiếng động quen thuộc của chiếc cửa, cho dù nó mới chỉ được mở ra có hai lần. Bằng bản năng, em cảm thấy người ta lại gần em, giống như một kẻ không may lạc trong những sa mạc châu Mỹ cảm thấy con rắn đến gần. Em muốn cố làm một điều gì đó, em đã thử kêu lên, bằng một quyết tâm không thể tưởng tượng nổi, em đã vùng đứng lên được nhưng rồi lại ngã xuống ngay và ngã vào hai cánh tay tên ngược đãi em. - Hãy nói cho tôi biết kẻ đó là ai đi! - Viên sĩ quan trẻ kêu lên. Chỉ cần liếc mắt cái, Milady đã thấy hết nỗi đau đớn của Felten mà nàng đã gợi ra cho anh ta, nàng xem xét lại từng chi tiết của câu chuyện kể, không định tha cho anh ta bất kỳ một sự cắn rứt nào kết. Càng làm cho cõi lòng anh ta tan nát bao nhiêu, càng chắc chắn anh ta sẽ báo thù cho nàng bấy nhiêu. Nàng tiếp tục, làm như không nghe thấy tiếng kêu than của anh ta, hoặc cũng có thể nàng nghĩ chưa đến lúc trả lời câu hỏi đó. - Có điều, lần này không còn là chuyện tên đê tiện giở trò với một cái xác bất động, không một chút tình cảm nào như lần trước nữa. Như đã nói với anh đấy, tuy không thể tìm lại được sự thuần thục của các khả năng của mình nữa, em vẫn còn cảm nhận được mối nguy, em chống lại bằng toàn bộ sức lực của mình, và dù sức đã yếu lắm rồi, em vẫn chống lại được khá lâu, bởi em nghe thấy tiếng hắn kêu lên: "Lũ đàn bà Thanh giáo khốn kiếp! Ta thừa biết chúng thường làm cho lũ đao phủ của chúng phải mệt nhoài, nhưng ta cứ tưởng chúng yếu hơn khi cưỡng lại những người tình của chúng!". Than ôi, cuộc chống cự tuyệt vọng ấy không thể kéo dài mãi, em cảm thấy sức lực mình cạn kiệt dần, và lần này, không phải tên đê tiện lợi dụng em trong giấc ngủ nữa mà là lúc em bị xỉu đi. Felten lắng nghe, không thất ra một lời nào ngoài một tiếng gầm khan, duy chỉ có mồ hôi đầm đìa trên vầng trán lạnh như đá, và bàn tay giấu trong áo cấu xé ngực mình. - Khi tỉnh dậy, hành động đầu tiên của em là tìm dưới gối con dao mà em đã không với đến được. Nếu như nó đã không dùng gì được cho việc tự vệ, ít ra nó cũng có thể dùng cho việc chuộc tội. Nhưng cầm con dao, Felten ạ, một ý nghĩ khủng khiếp chợt đến với em. Em đã thề nói hết với ông, vậy em sẽ nói hết. Em đã hứa với ông nói hết sự thật, vậy em sẽ nói ra sự thật, dù sự thật đó có thể hại em. - Ý nghĩ sẽ trả thù tên đàn ông đó, có phải không? - Felten hỏi. - Vâng, đúng thế đấy - Milady nói - ý nghĩ đó không xứng với một tín đồ, em biết thế, chắn hẳn tên kẻ thù vĩnh viễn của linh hồn chúng ta, con sư tử đực gầm thét không ngừng xung quanh chúng ta đã thổi vào đầu óc em cái ý nghĩ đó. Rốt cuộc, em biết nói gì với ông đây, Felten? - Milady tiếp tục với giọng điệu một người đàn bà tự buộc tội mình - Ý nghĩ ấy đến với em và chắc chắn sẽ không bao giờ rời khỏi em nữa. Chính là do cái ý nghĩ sát nhân đó mà giờ đây em đang phải chịu trừng phạt. - Tiếp tục đi, tiếp tục - Felten nói - Tôi đang mong đến đoạn báo thù. - Ồ, Em quyết định việc trả thù tiến hành càng sớm càng tốt, em tin chắc đêm sau thế nào hắn cũng đến. Ban ngày, em chẳng có gì phải sợ. Vì vậy, tới giờ ăn sáng, em cứ việc thoải mái ăn uống. Bữa tối em quyết định giả vờ ăn nhưng chẳng ăn gì cả. Muốn vậy em phải lấy việc ăn bữa sáng chống chọi lại cái đói bữa tối. - Có điều, em phải bớt một cốc nước bữa sáng giấu đi, cái khát đã từng làm em khổ sở, nhất là khi em bốn tám tiếng đồng hồ không ăn không uống. Ngày trôi đi không có một chút tác động nào đến em, ngoài việc càng quyết tâm hơn ý định trả thù. Có điều em cần giữ sao cho vẻ mặt mình không phản lại ý nghĩ thầm kín trong lòng, bởi em tin chắc em sẽ bị quan sát, nhiều lúc, em còn cảm thấy có cả nụ cười trên môi mình nữa. Felten ạ, em không dám nói ra với ông em mỉm cười vì đã nghĩ gì đâu, em sợ ông kinh tởm em vì điều đó. - Tiếp tục đi, tiếp tục đi - Felten nói - bà biết rõ tôi đang lắng nghe mà và tôi đang nóng ruột nghe nó đi đến đâu. - Rồi trời lại tối, những sự cố thông thường lại được hoàn tất. Trong bóng tối, như thường lệ, bữa tối lại được dọn ra, rồi đèn lại thắp sáng, em ngồi vào bàn ăn. Em chỉ ăn mấy trái cây thôi, em vờ như rót nước từ bình nước nhưng chỉ uống nước em đã trữ sẵn trong cốc, hơn nữa, việc đánh tráo được tiến hành rất khéo khéo khiến cho những kẻ rình mò không một chút nghi ngờ. Sau bữa tối, em làm như có những dấu hiệu lơ lơ như đêm trước, nhưng lần này, em làm như không thắng nổi mệt mỏi hoặc như thể đã quen với hiểm nguy, em lê người tới giường cởi váy áo và đi nằm. Lần này, em tìm lại được con dao dưới gối, giả vờ ngủ, tay nắm chặt chuôi dao. Hai giờ trôi qua không xảy ra chuyện gì mới cả. Lần này, ô, Chúa ơi! Tối qua đâu có chuyện đó! Em bắt đầu lo hắn không đến. Cuối cùng, em cũng thấy đèn nâng lên nhẹ nhàng và biến mất trong chiều sâu của trần nhà, căn buồng em toàn là bóng tối nhưng em cố sức nhìn xuyên qua bóng đêm. Khoảng gần mười phút trôi qua. Em chẳng nghe thấy tiếng gì khác ngoài tiếng đập của trái tim mình. Em cầu trời cho hắn tới. Cuối cùng, em cũng nghe thấy tiếng động cửa quen thuộc mở ra và đóng lại. Mặc dầu thảm trải khá dầy, em vẫn nghe thấy tiếng sàn nhà kêu khẽ. Mặc dầu bóng đêm dày đặc, em vẫn nhìn thấy một bóng người lại gần giường em. - Nhanh lên, nhanh lên nào! - Felten nói - Bà không thấy mỗi lời nói của bà đều như thiêu đốt lòng tôi ư? - Thế là - Milady tiếp tục - em tập trung hết sức lực, em nhớ ra đây là lúc trả thù hay đúng hơn, tiếng chuông công lý đã điểm. Em tự coi mình như một nàng Judita khác, em thu mình lại, dao trong tay và khi em đã thấy hắn ở bên em và đang dang rộng hai tay để tìm nạn nhân của hắn, thế là thét một tiếng cuối cùng đau đớn và tuyệt vọng, em phóng dao vào ngực hắn. Tên khốn kiếp! Hắn đã đề phòng. Ngực hắn đã che một tấm lưới sắt Con dao quằn lại. "Chà!" - Hắn kêu lên, nắm lấy cánh tay em, giật lấy con dao đã chẳng làm nổi việc gì. "Chà, người đẹp Thanh giáo, nàng định giết ta ư? Nhưng thế thì còn hơn cả căm hận, như thế là sự bội bạc! Thôi nào, hãy bình tĩnh lại, cô bé xinh đẹp của ta? Ta cứ tưởng nàng đã dịu dàng lên rồi. Ta đâu phải một tên bạo chúa dùng sức mạnh để giữ chặt đàn bà. Nàng không yêu ta. Ta vốn tự phụ nên không tin điều đó. Giờ thì ta tin chắc rồi. Ngày mai nàng sẽ được tự do" Em chỉ có một ước muốn, đó là hắn giết em đi vì vậy em bảo hắn: "Hãy coi chừng, bởi tự do của tôi, chính là sự ô nhục của ông" - " Nói rõ ra xem nào, cô đồng bóng xinh đẹp của ta" "Đúng thế đấy, bởi ra khỏi đây một cái, là tôi sẽ nói hết, tôi sẽ nói ông đã dùng bạo lực đối với tôi, tôi sẽ nói việc tôi bị giam cầm, tôi sẽ tố cáo cái lâu đài đê nhục này, ông quyền quý cao sang thật đấy, nhưng hãy biết run sợ! Trên ông còn có Vua, trên Vua còn có Thượng đế". Kẻ ngược đãi em có vẻ tự chủ đến thế, mà cũng không tránh khỏi hầm hầm giận dữ. Em không thể nhìn rõ nét mặt hắn, nhưng em cảm thấy cánh tay hắn run lên trong bàn tay em. "Thế thì nàng sẽ không ra khỏi đây nữa!" - Hắn nói thế. Em kêu lên: "Được, được thôi! Thế thì nơi tôi bị khổ hình cũng sẽ là nấm mồ của tôi. Được, tôi sẽ chết ở đây. Và ông sẽ thấy liệu một hồn ma tố cáo ông có khủng khiếp hơn một người sống hàm dọa ông không". - "Người ta sẽ không để lại cho nàng một thứ vũ khí nào để mà tự sát!". "Có một thứ vũ khí mà sự tuyệt vọng đã đặt trong tầm tay của bất cứ kẻ nào có đủ dũng khí dùng đến nó. Tôi sẽ để mình chết đói". Tên khốn nạn nói: "Nghĩ xem, hòa bình lại không hơn là chiến tranh? Ta sẽ trả tự do cho nàng ngay tức khắc. Ta ban tiết hạnh cho nàng, ta tôn nàng lên hàng Lucrét của nước Anh(1). "Còn tôi, tôi bảo ông là một tên Xếchtútx, tôi sẽ vạch mặt ông trước mọi người, như tôi đã từng vạch mạch ông trước Chúa, và nếu cần phải như Lucrét, ký vào bản cáo trạng bằng máu của mình, tôi sẽ ký". Kẻ thù của em nói bằng một giọng nhạo báng: "Ồ, đó lại là chuyện khác. Thật ra, suy cho cùng, nàng ở đây cũng tốt, nàng chẳng thiếu thứ gì và nếu như nàng muốn nhịn cho chết đói thì đó là lỗi của nàng". Nói rồi, hắn rút lui. Em nghe thấy tiếng cửa mở rồi lại đóng và em xin thú thật, em vẫn còn chìm đắm trong nỗi đau, nhưng vẫn không bằng việc chưa trả được thù. Hắn giữ lời hứa với em. Suốt cả ngày rồi cả đêm hôm sau trôi qua mà em không gặp lại hắn. Nhưng em cũng giữ lời, em không ăn, không uống, em quyết định, như đã nói với hắn, sẽ để mình chết đói. Đêm ngày em cầu nguyện bởi em hy vọng Chúa sẽ tha tội tự sát cho em. Đêm thứ hai, cửa mở, em nằm lăn dưới đất sức lực rời rã. Nghe tiếng động, em chống tay ngồi dậy. "Thế nào! - Một giọng nói rung lên khủng khiếp bên tai em khiến em không nhận ra ai nữa - Thế nào? Chúng ta đều mát tính bớt một chút rồi chứ? Và nàng sẽ trả giá cho tự do của mình bằng một lời hứa sẽ lặng im chứ? Nghe đây, ta vốn là một ông hoàng tốt bụng - hắn nói thêm - cho dù không ưa bọn Thanh giáo, ta vẫn công bằng với họ, với đàn bà Thanh giáo khi họ đẹp, cũng thế thôi. Vậy nàng hãy thề một chút trước cây thánh giá, ta không đòi hỏi gì hơn đâu?" "Thề trên thánh giá ư?" - Em vừa đứng dậy vừa kêu lên, bởi nghe cái giọng ghét độc ghét địa ấy, em lại lấy lại được mọi sức lực – "Trên thánh giá ư? Tôi thề không hứa hẹn nào, không hăm dọa nào, không tra khảo nào bịt nổi miệng tôi, đấy, thề trên thánh giá như thế đấy! Tôi thề sẽ vạch mặt ông ở khắp nơi là một kẻ sát nhân, một gã sở khanh, một tên hèn hạ. Trên thánh giá, tôi thề nếu bao giờ tôi có thể thoát được khỏi đây, tôi sẽ nhân danh toàn bộ giống người đòi trả thù ông". "Coi chừng đấy!" - giọng nói với vẻ đe dọa em chưa từng nghe thấy cất lên - "Ta có một biện pháp tối hậu, cùng lắm ta mới phải dùng đến để khóa miệng nàng lại hoặc ít nhất cũng ngăn không cho mọi người tin dù chỉ một lời của nàng". Em thu hết sức lực để trả lời hắn bằng một tràng cười. Hắn thấy từ nay giữa em và hắn sẽ là chiến tranh vĩnh viễn, cuộc chiến sinh tử "Nghe đây - hắn nói - Ta cho nàng nốt đêm nay và ngày mai. Nghĩ cho kỹ, và hãy hứa câm miệng. Sự giàu có, danh giá, và cả danh dự nữa sẽ quây quanh nàng. Dọa nạt tố giác, ta sẽ xử nàng tội ô nhục" - "Ngươi - Em kêu lên - Ngươi xử ư?" "Tội ô nhục suốt đời, không xóa được"! - "Ngươi ư?" - Em nhắc lại. Ôi, ông Felten, em ngỡ là hắn điên cơ! "Đúng ta sẽ làm thế!" - Hắn nhắc lại. "Này, để mặc tôi - Em nói với hắn - Ra đi, nếu ngươi không muốn tận mắt ngươi, ta đập đầu vào tường" - "Hay lắm - Hắn nhắc lại - nàng đã muốn thế - Hẹn tối mai!" - "Thì tối mai!" - Em vừa trả lời vừa ngã xuống cắn xé tấm thảm như phát dại. Felten phải tựa mình vào ghế, và Milady thấy có lẽ chàng ta không còn đủ sức nữa trước khi câu chuyện kết thúc. Chú thích: (1) Xếchtútx Táckiníut, con trai của Táckiníut Xúppécbútx. Ông vua thứ bẩy của La Mã, bắt cóc nàng Lucrét tiết hạnh, sự tự sát của nàng tiếp đó là nguyên nhân sự lật đổ cả ngôi vua và thay thế bằng chế độ cộng hòa La mã năm 509 trước CN. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:49 | |
| Chương 57
Một thủ pháp bi kịch cổ điển. Sau một lát im lặng để quan sát chàng trai trẻ, Milady tiếp tục: - Gần ba ngày trời em không uống không ăn, chịu những cực hình tàn khốc, đôi khi như có những đám mây thít chặt lấy trán em, bịt kín mắt em, đó là lúc em mê sảng. Tối đến, em quá yếu đến nỗi mỗi lúc em ngất đi là mỗi lần em cảm ơn Chúa, bởi em tưởng mình sắp chết. Giửa một lần đang ngất đi như thế, em nghe thấy tiếng cửa mở, nỗi hãi hùng làm em tỉnh lại. Hắn vào phòng em, theo sau là một tên đeo mặt nạ, hắn cũng đeo mặt nạ, nhưng em nhận ra tiếng chân hắn, giọng nói hắn em nhận ra cái vẻ oai phong mà địa ngục đã đem lại cho con người hắn để hắn đem lại bất hạnh cho nhân loại. Hắn bảo em: "Thế nào? Nàng đã quyết định thề với ta như ta đã yêu cầu chưa?" - "Ông đã từng nói, dân Thanh giáo chỉ nói một lời. Lời tôi nói, ông đã nghe rồi, đó là trên trái đất sẽ theo ông đến tòa án của con người, lên trên trời, sẽ đưa ông ra tòa của Chúa!". "Vậy là nàng vẫn ngoan cố!" - "Tôi thề trước Đức Chúa thấu hiểu lòng tôi, là tôi sẽ đem toàn nhân loại ra làm chứng cho tội ác của ông, và vẫn làm như thế cho đến khi tìm được một người báo thù! - "Ngươi là một con điếm - hắn gầm lên như sấm - ngươi sẽ phải chịu cực hình cho loài đĩ điếm! Ngươi sẽ được bêu riếu trước mắt cái nhân loại mà ngươi định viện dẫn, ngươi hãy cố chứng tỏ cho cái nhân loại ấy biết là ngươi không hề phạm tội, cũng chẳng điên rồ!". Rồi, hắn nói với kẻ đi theo hắn: "Đao phủ, làm nhiệm vụ của người đi!" - Ôi, tên hắn, tên hắn là gì? - Felten kêu lên - Tên hắn, nói cho tôi biết đi! - Thế là, mặc cho em kêu thét, mặc cho em kháng cự, bởi em bắt đầu hiểu ra sắp có chuyện tệ hại với em còn hơn cả cái chết, tên đao phủ túm lấy em, đè ngửa em ra sàn nhà, ghì chặt lấy em. Em khóc nức nở, gần như ngạt thở, như bất tỉnh, cầu Chúa, Chúa không nghe, bất thình lình em hét lên một tiếng khủng khiếp đau đớn và hổ nhục: lừa cháy rừng rực, thanh sắt nung đỏ, thanh sắt của đao phủ in lên vai em. Felten gầm lên một tiếng. - Thế đấy - Milady vừa nói vừa đứng lên uy nghi như một bà hoàng - Thế đấy, Felten ạ, ông đã thấy người ta phát minh ra một cực hình mới như thế nào đối với một thiếu nữ trong trắng tuy nhiên lại là nạn nhân của sự tàn bạo của một kẻ hung ác nham hiểm. Ông hãy học cách hiểu lòng dạ con người và từ nay ông đừng có dễ dàng biến mình thành công cụ của những cuộc báo thù bất chính của họ. Milady cởi phắt áo dài ra, xé toang miếng vải lanh mịn che ngực, mặt bừng bừng vờ giận dữ và hổ nhục, chỉ cho chàng trai trẻ cái dấu chín không thể xóa nổi làm nhơ nhuốc một bên vai tuyệt đẹp của nàng. - Nhưng - Felten kêu lên - tôi thấy đó là bông hoa huệ cơ mà! - Sự xấu xa chính lại là ở chỗ ấy. Milady trả lời - Nếu là dấu chín ô nhục của Anh quốc. Tôi sẽ phải làm rõ tòa án nào buộc tội tôi như thế và tôi sẽ công khai khiếu nại với tất cả các tòa án của vương quốc. Nhưng mà là dấu chín ô nhục của nước Pháp. Ôi nếu của nước Pháp, bởi nước Pháp, thì tôi thực sự bị đóng dấu chín rồi. Như thế là quá mức với Felten. Tái xanh, bất động, bị dồn ép bởi sự phát giác rùng rợn, bị choáng mắt bởi sắc đẹp siêu nhiên mà người đàn bà đó đã vén toang ra cho chàng hết sức trơ trẽn nhưng chàng ta lại thấy là cao cả, cuối cùng chàng ta quỳ gối trước mặt nàng giống như những tín đồ Thiên Chúa đầu tiên quỳ gối trước những nữ thánh tuẫn đạo trong trắng bị các hoàng đế bạo ngược ném vào trong các hí trường làm trò dâm dục đẫm máu cho đám hạ lưu. Cái dấu chín ô nhục biến mất, chỉ sắc đẹp là còn lại. - Xin lỗi, xin thứ lỗi! - Felten kêu lên -hãy thứ lỗi cho tôi! Milady đọc trong đôi mắt gã: Tình yêu, tình yêu. - Xin lỗi cái gì - Nàng hỏi. - Xin lỗi vì đã liên kết với những kẻ ngược đãi nàng. Milady chìa bàn tay ra cho gã. - Quá đẹp, quá trẻ! - Felten vừa nói vừa tới tấp hôn. Milady nhìn gã bằng con mắt như thể hoán cải gã từ một tên nô lệ thành một quân vương. Felten là một tín đồ Thanh giáo. Gã buông tay người đàn bà để hôn chân nàng. Không phải là yêu nữa mà là hắn tôn thờ nàng. Khi cơn khủng hoảng đó đã qua đi, khi Milady ra vẻ đã bình tĩnh trở lại, tuy chưa bao giờ mất, thì Felten cũng thấy kho báu tình yêu khép lại dưới tấm màn trinh bạch, cái kho báu mà người ta cất giấu rất kỹ khiến cho càng thêm khát mãnh liệt hơn. - Thôi, bây giờ tôi chỉ còn một điều để hỏi nàng - gã nói - đó là tên của tên đao phủ đích thực, bởi đối với tôi, chỉ có một tên thôi, tên kia là công cụ, thế thôi. - Sao thế anh! - Milady kêu lên - em lại còn phải nói đích danh ra cho anh ư? Anh không đoán ra ư? - Sao! - Felten lắp lại - Hắn ư… lại là hắn!… Vẫn là hắn… - Sao? Tên tội phạm chính tông. - Tên tội phạm chính tông -Milady nói - Đó là kẻ tàn phá nước Anh, kẻ ngược đãi những tín đồ chân chính, kẻ hèn hạ đánh cắp danh dự của biết bao phụ nữ, kẻ có thói ngược ngạo của con tim đồi bại sắp làm đổ bao nhiêu máu cho nước Anh, hôm nay che chở cho những người Tin lành và nay mai sẽ phản bội họ. - Buckingham! Đúng là Buckingham rồi! - Felten nổi giận hét lên. Milady giấu mặt vào hai tay như thể không chịu nổi nỗi ô nhục khi nhắc tới cái tên ấy. - Buckingham, tên đao phủ của nữ thiên thần này! - Felten kêu lên - Ôi Chúa, sao Người không giáng sấm sét lên đầu nó - - Người lại còn để nó được cao sang, tôn vinh, hùng mạnh để gây hại cho mọi người chúng con! - Chúa bỏ mặc kẻ buông thả chính mình - Milady nói. Felten càng phấn khích hơn, tiếp tục nói: - Nhưng Chúa lại muốn đổ lên đầu hắn sự trừng phạt dành cho những kẻ bị nguyền rủa? Chúa muốn sự trả thù của con người đến trước sự công bằng của Chúa! - Con người sợ hắn và tha cho hắn. - Ồ, tôi - Felten nói - Tôi không sợ hắn và tôi sẽ không tha cho hắn! Milady thấy tâm hồn mình như được tắm trong niềm vui địa ngục. - Nhưng làm sao Huân tước De Winter, người đỡ đầu của tôi, cha của tôi - Felten hỏi - lại đi xen lẫn vào mọi chuyện này? - Nghe đây, Felten - Milady nói tiếp - bởi bên cạnh những con người hèn hạ và đáng khinh, vẫn còn những bản tính lớn lao và quảng đại. Em có một vị hôn phu, một người em yêu và cũng yêu em, một tấm lòng như của ông, Felten ạ, một người như ông. Em đến với ông ta, và em kể cho ông ta tất cả. Ông ta hiểu em và không hề nghi ngờ chút nào. Đó là một đại lãnh chúa. Đó là một người đàn ông mọi mặt đều tương xứng với Buckingham. Ông ấy không nói gì, chỉ đeo gươm vào, khoác áo choàng lên và đi đến lâu đài Buckingham. - Phải, phải - Felten nói - Tôi hiểu, cho dù với những hạng người như thế, không nên dùng gươm mà phải dùng dao găm. Buckingham đã đi khỏi từ hôm trước, hắn được phái đi làm đại sứ ở Tây Ban Nha để hỏi công chúa nước này cho vua Charles đệ nhất lúc đó mới là hoàng tử xứ Gan. Vị hôn phu của em quay về bảo em: "Nghe đây, con người ấy đã đi mất rồi, do đó, lúc này anh chưa thể trả thù được. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta hãy kết hôn như cần phải làm thế, rồi em hãy dựa vào Huân tước De Winter(1) để giữ danh dự cho ông ta và vợ ông ta, tức bản thân em". - Huân tước De Winter! - Felten kêu lên. - Phải - Milady nói - Huân tước De Winter, và bây giờ ông hẳn đã hiểu cả phải không? Buckingham vắng mặt gần một năm. Tám ngày trước khi hắn trở lại nước Anh, Huân tước De Winter chết đột tử để lại gia tài cho em là người thừa kế duy nhất. Từ đâu xảy ra chuyện ấy. Chúa là người biết tất, chắc sẽ biết, riêng em, em không buộc tội ai… - Ôi, vực thẳm khôn lường, đúng là vực thẳm khôn lường! - Felten kêu lên. - Huân tước De Winter chết mà không một lời trăng trối cho em mình. Cái bí mật khủng khiếp ấy chắc đã được che giấu đối với tất cả cho tới khi nó nổ tung như một tiếng sét trên đầu tên tội phạm. Người cha đỡ đầu của ông trước đó đã từng phiền lòng về cuộc hôn nhân của anh cả mình với một thiếu nữ không tài sản. Vì vậy em cảm thấy không trông cậy gì được vào con người bị thất vọng trong chuyện kế thừa tài sản ấy. Em sang Pháp, quyết định ở lại đấy trong suốt quãng đời còn lại. Nhưng tất cả tài sản của em đều ở Anh. Chiến tranh làm giao thông bị bế tắc, em thiếu thốn đủ thứ, buộc phải quay về. Thế là em ghé cảng Portsmouth đã được sáu ngày rồi. - Ra thế? - Felten hỏi. - Thế đấy? Chắc là Buckingham biết em quay về, hắn nói về em với Huân tước De Winter, là người sẵn thành kiến chống lại em, rằng chị dâu ông ta là một con điếm, một con đàn bà bị đóng dấu ô nhục. Tiếng nói cao quý và trong trắng của chồng em đâu còn nữa để bênh vực em. Ông Winter tin tất cả những gì hắn nói quá dễ dàng, vì càng tin càng có lợi cho mình. Ông ta cho bắt em, cho đưa em đến đây, đặt em dưới sự canh giữ của ông. Phần còn lại, ông biết rõ rồi. Ngày kia ông ấy trục xuất, ông ấy lưu đày em rồi, ngày kia ông ấy quăng em vào lũ xấu xa đê mạt rồi. Ôi, quỷ kế xếp đặt tài tình, âm mưu thật là khéo, danh dự em vì thế sẽ đi đời. Ông đã thấy em nên chết chưa, Felten? Felten, đưa em con dao? Nói rồi, làm như thể mọi sức lực của mình đã cạn kiệt, nàng lảo đảo lả người vào trong hai cánh tay viên sĩ quan trẻ đang say sưa trong tình yêu, trong giận dữ và trong những khoái cảm xa lạ, sướng quá vội đón lấy nàng, ghì chặt nàng vào ngực mình, toàn thân run lên trước hơi thở của cái miệng quá ư xinh đẹp, và lạc hẳn hồn đi khi chạm phải bầu vú cứ rung rung lên đến thế. - Không, không - chàng ta nói - em sẽ sống trong danh dự và trong trắng, em sẽ sống để chiến thắng kẻ thù của em. Milady lấy tay khẽ đẩy, nhưng mắt lại hút chàng ta lại. Nhưng Felten, đến lượt mình, lại giữ chặt lấy nàng, van xin nàng như với một Đấng thiêng liêng. - Ôi! Phải chết! Phải chết! - Nàng vừa nói vừa lấy tay che miệng và mi mắt - Ồ, chết còn hơn là ô nhục, Felten anh của em, bạn của em, em xin anh đấy. - Không Felten kêu lên - không, em sẽ sống, em phải sống để trả thù. - Felten, em mang bất hạnh cho mọi người quanh em? Felten hãy rời bỏ em ra? Felten, hãy để em chết. - Đã vậy chúng ta cùng chết! - Felten vừa kêu lên vừa áp môi mình vào môi nữ tù nhân. Nhiều tiếng gõ cửa, lần này Milady đẩy anh chàng ra thực. - Nghe nào, - Nàng nói - họ nghe thấy hết chúng ta rồi, họ đã đến. Thế là xong chuyện. Chúng ta toi rồi? - Không - Felten nói - đó là tên lính canh báo cho anh có một đội tuần tra đang đến thôi mà. - Thế thì anh chạy nhanh ra cửa và tự mở cửa ra đi. Felten nghe theo. Người đàn bà đó đã hút hết hồn anh ta rồi. Anh ta thấy trước mặt mình một viên đội chỉ huy một đội tuần tra. - Này, có chuyện gì vậy? - Ông dặn tôi mở cửa nếu nghe tiếng kêu cứu -người lính nói - nhưng ông lại quên để chìa khóa cho tôi, tôi có nghe thấy ông kêu nhưng không hiểu ông nói gì, tôi muốn mở cửa nhưng cửa lại khóa ở bên trong, cho nên tôi phải gọi ông đội. - Và tôi đã có mặt ở đây - viên đội nói Felten, điếng người, gần như phát điên, không nói nổi điều gì. Milady hiểu rằng chính mình phải nắm lấy tình thế, liền chạy đến bàn vớ lấy con dao mà Felten đã để lên đấy. - Và ông lấy quyền gì ngăn tôi không được chết? - Nàng nói. - Trời ơi! - Felten kêu lên khi nhìn thấy con dao sáng loáng trong tay nàng. Đúng lúc ấy, một tràng cười mỉa mai vang lên ở hành lang. Huân tước, bị thu hút bởi tiếng động, vẫn mặc áo ngủ, gươm cầm trong tay chạy đến đứng ở ngưỡng cửa và nói: - Chà, hay lắm! Màn cuối của bi kịch đây! Thấy chưa, Felten, vở diễn đã theo đúng các đoạn cảnh mà tôi đã chỉ ra. Nhưng yên tâm đi, máu sẽ không chảy đâu. Milady hiểu rằng mình sẽ nguy to nếu không tức khắc đem đến cho Felten một bằng chứng khủng khiếp về lòng dũng cảm của mình. - Ông nhầm đấy, Huân tước ạ, máu sẽ chảy và cầu cho máu ấy có thể rơi xuống mặt những kẻ làm cho nó chảy. Felten thét lên một tiếng và nhẩy bổ vào nàng. Nhưng đã quá muộn. Milady đã tự đâm mình. Nhưng con dao may sao, phải nói là khéo sao mới đúng, chỉ đâm phải tấm sắt uốn cong mà vào thời đó được dùng như một thứ áo giáp che ngực cho phụ nữ, mũi dao bị trượt đi làm rách áo và đâm xiên vào thịt giữa hai giẻ xương sườn. Áo của Milady loang đầy máu. Milady ngã vật ra và hình như bị ngất. Felten rút con dao ra, sa sầm mặt lại và nói: - Thưa Huân tước, ngài xem, đây là người đàn bà được tôi canh giữ và đã tự sát! - Yên tâm, Felten - Ông De Winter nói - bà ta không chết đâu, lũ yêu ma không dễ chết như thế, cứ yên tâm, về đợi ở phòng tôi. - Nhưng thưa Huân tước… - Đi đi, tôi ra lệnh cho anh đấy. Lệnh của cấp trên, Felten phải tuân theo, nhưng khi ra, gã thủ con dao trong ngực mình. - Còn ông De Winter đành phải cho gọi người hầu phòng của Milady đến giao nữ tù nhân vẫn đang ngất cho bà, bỏ mặc hai người ở đấy. - Tuy nhiên, mặc dầu vẫn nghi ngờ, nhưng đại để vết thương có thể nặng, ông ta liền sai một người cưỡi ngựa ngay tức khắc đi tìm thầy thuốc. Chú thích: (1) Ý nói anh cả của Huân tước De Winter, cũng tên là De Winter |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:50 | |
| Chương 58
Vượt ngục Như ông De Winter nghĩ, vết thương của Milady không nguy hiểm, cho nên ngay từ lúc chỉ còn lại với người đàn bà mà Huân tước đã cho gọi người này vội cởi áo của nàng ra, nàng đã mở mắt. Tuy nhiên, cần phải chơi trò đau yếu, mà cái trò này lại không khó đối với một diễn viên hài như Milady. Vì vậy người đàn bà đáng thương này hoàn toàn bị nữ tù nhân lừa bịp, mặc dầu nàng nài nã nói không cần nhưng bà ta vẫn cưỡng lại, thức suốt đêm trông coi. Nhưng sự có mặt của người đàn bà đó không ngăn nổi Milady suy nghĩ. "Không còn chút nghi ngờ nào nữa, Felten đã bị thuyết phục, Felten đã thuộc về nàng. Với trạng thái tâm lý như hiện nay thì ngay một thiên thần có hiện ra để buộc tội Milady, chàng ta cũng sẽ coi là tay sai của quỷ sứ". Nghĩ vậy Milady mỉm cười, bởi từ này Felten chính là nguồn hy vọng duy nhất, phương tiện duy nhất để cứu nàng. Nhưng Huân tước De Winter có thể đã nghi ngờ chàng ta và giờ đây Felten có thể bị chính ông giám sát. Vào khoảng bốn giờ sáng, thầy thuốc tới, nhưng từ lúc Milady tự đâm, vết thương nay đã kín miệng, thầy thuốc chẳng thể xác định được nông sâu, xiên xẹo ra sao, ông ta chỉ nhận ra sau khi bắt mạch là vết thương không có gì trầm trọng. Sáng ra, Milady vin cớ suốt đêm không ngủ, cần được nghỉ ngơi, đuổi người đàn bà chăm nom cho mình đi. Nàng có một hy vọng, đó là Felten tới, lúc ăn điểm tâm. Nhưng Felten lại không tới. Những điều nàng lo sợ thành sự thật rồi chăng? Felten do bị Huân tước nghi ngờ sẽ thiếu vắng trong khoảnh khắc quyết định chăng? Nàng chỉ còn có một ngày. Huân tước thông báo ngày nàng xuống tàu là 28 mà lúc này đã sáng ngày 22. Tuy nhiên nàng vẫn kiên nhẫn đợi cho tới bữa trưa. Cho dù nàng không ăn sáng, bữa trưa vẫn được dọn tới đúng giờ thường lệ, Milady lúc này kinh hãi nhận thấy đồng phục của bọn lính canh giữ đã thay đổi. Milady hỏi cầu âu xem Felten ra sao. Họ trả lời Felten đã cưỡi ngựa đi đâu đó trước đây một giờ rồi. Nàng lại hỏi thăm liệu Huân tước vẫn ở lâu đài chứ. Người lính trả lời vẫn đấy, và anh ta được báo cho ông ta biết nếu người tù muốn gặp. Milady trả lời lúc này nàng còn yếu lắm và nguyện vọng duy nhất của nàng là được ở một mình. Người lính ra, để lại bữa cơm trưa. Felten đã bị tách ra rồi, bọn lính thủy cũng được thay. Vậy là người ta đã nghi ngờ Felten. Đó là đòn cuối cùng đánh vào nữ tù nhân. Còn lại một mình, nàng ngồi dậy. Chiếc giường do thận trọng nàng đã nằm lỳ ở đấy để người ta tưởng nàng bị thượng nặng, lúc này thiêu đốt nàng như than hồng rực lửa. Nàng liếc mắt nhìn về phía cửa. Huân tước đã cho đóng một tấm ván bịt kín ô cửa lưới. Chắc hẳn ông sợ, qua lỗ cửa ấy, bằng một thủ đoạn ma quái nào đấy màng lại quyến rũ được bọn lính gác. Milady mỉm cười vui sướng. Vậy là có thể phó mặc cho nỗi lòng mình mà không bị quan sát. Nàng đi quanh phòng, lồng lộn như một con điên đang giận dữ hoặc một con hổ cái bị nhốt trong lồng sắt. Chắc chắn, nếu còn con dao, nàng nghĩ đến chuyện không phải tự giết mình nữa mà lần này, giết ông Huân tước Lúc sáu giờ, Huân tước De Winter vào, trang bị vũ khí đến tận răng. Cái con người mà trước đây nhìn vào, Milady chỉ thấy là một nhà quý tộc ngốc nghếch nay đã trở thành viên cai ngục đáng phục. Ông ta hình như biết trước, đoán trước, liệu trước được hết mọi điều. Chỉ một cái liếc nhìn về phía Milady là ông ta đã hiểu được điều gì diễn ra trong đầu nàng. Ông nói: - Ồ, thế là, hôm nay bà lại chưa giết được tôi rồi, bà không còn vũ khí nữa, hơn nữa, tôi lại tự canh giữ. Bà mới chỉ bắt đầu làm hư hỏng anh chàng Felten tội nghiệp của tôi. Anh ta đã chịu cái ảnh hưởng âm ty địa ngục của bà, nhưng tôi muốn cứu anh ta, anh ta sẽ không gặp bà nữa, tất cả đã chấm dứt, hãy gói ghém áo quần của bà lại, ngày mai bà sẽ lên đường. Tôi đã ấn định ngày xuống tàu là 24, nhưng tôi đã nghĩ lại, càng làm sớm hơn càng an toàn. Trưa mai, tôi sẽ có lệnh lưu đày bà do ông Buckingham ký. Nếu bà nói một câu với bất cứ ai trên tàu, viên đội của tôi sẽ bắn vỡ sọ bà, ông ta đã được lệnh như thế. Nếu trên tàu, bà nói một câu với bất kỳ ai mà chưa được thuyền trưởng cho phép, thuyền trưởng sẽ cho quẳng bà xuống biển, đã thỏa thuận như thế cả rồi. Tạm biệt, đó là những gì hôm nay tôi cần nói với bà. Ngày mai tôi sẽ gặp lại bà để chào vĩnh biệt! Nói rồi Huân tước đi ra. Milady nghe cả một tràng đe nẹt ấy với nụ cười khinh thị trên môi, nhưng với cơn điên dại trong lòng. Người ta dọn bữa tối. Milady cảm thấy mình cần phải có đủ sức, nàng không biết điều gì có thể diễn ra trong cái đêm đầy đe dọa đang đến gần này, bởi từng đám mây lớn đang cuồn cuộn trên trời và những ánh chớp xa báo hiệu có cơn giông. Cơn giông nổi lên lúc mười giờ tối, Milady cảm thấy niềm an ủi được thiên nhiên chia sẻ những rối loạn trong lòng. Sét gầm thét trong không trung như những cơn giận trong tư tưởng của nàng. Hình như mỗi trận gió đi qua làm rối tung tóc nàng trên trán giống như nó vật vã cành cây và cuốn lá bay đi. Nó gầm rú như bão tố, và tiếng gầm rú đó tan lẫn vào tiếng kêu lớn của tự nhiên, như thể chính tự nhiên hình như cũng than vãn và tuyệt vọng. Bất thình lình nàng nghe thấy tiếng gõ vào cửa kính và trong ánh chớp, nàng nhìn thấy một khuôn mặt người đàn ông hiện ra sau song cửa. Nàng chạy đến cửa sổ và mở ra. - Felten - nàng reo lên - Em được cứu rồi! - Đúng thế - Felten nói - nhưng im nào, im nào! Phải có thì giờ để cưa chấn song, có điều nàng hãy coi chừng bọn chúng nhìn thấy nàng qua ô cửa lưới. - Ồ, đó là một bằng chứng Thượng đế đã giúp chúng ta, Felten ạ - Milady nói tiếp - họ đã bịt kín ô cửa lưới bằng một tấm ván rồi. - Tốt lắm. Chúa đã làm cho chúng mất trí hết rồi! - Nhưng em phải làm gì đây? - Milady hỏi. - Không gì cả. Chỉ đóng cửa sổ lại thôi. Đi nằm ngủ hoặc ít nhất cũng mặc nguyên quần áo đi nằm. Khi nào xong tôi sẽ gõ lên ô kính. Nhưng nàng có thể đi theo nổi tôi không? - Ô, có chứ. - Thế vết thương? - Làm em đau, nhưng không ngăn nổi em bước. - Vậy hãy chuẩn bị sẵn sàng có ám hiệu là đi ngay. Milady đóng cửa sổ lại, tắt đèn và làm đúng như lời Felten dặn, nằm thu lu trên giường. Nàng nghe thấy tiếng giũa cưa ken két vào song cửa, và cứ trong mỗi ánh chớp nàng lại nhìn thấy Felten sau ô kính. Nàng trải qua một giờ nín thở, hổn hển, mồ hôi đầm đìa trên trán. Mỗi khi nghe thấy một tiếng động nào ngoài hành lang là tim nàng lại thót lại, hoảng hồn. Mỗi giờ như dài bằng một dặm. Khoảng một giờ sau, Felten lại gõ cửa. Milady chồm khỏi giường và ra mở. Hai chấn song bị cưa mất tạo thành một lỗ hổng vừa một người chui. - Nàng đã sẵn sàng chưa? - Felten hỏi. - Rồi. Em có nên mang theo vài thứ gì không? - Vàng, nếu nàng có. - Có, may sao, họ lại để nguyên số vàng em có. - Càng tốt, bởi tôi đã sử dụng tất cả những gì tôi có để thuê một chiếc thuyền rồi. - Chàng cầm lấy - Milady vừa nói vừa đặt tay Felten một chiếc túi đầy đồng louis vàng. Felten cầm chiếc túi và ném xuống chân tường và nói: - Bây giờ, nàng đến đó chứ? - Em đã sẵn sàng đây rồi. Milady trèo lên chiếc ghế bành và chui cả người qua cửa sổ. Nàng thấy viên sĩ quan trẻ đu người trên một chiếc thang dây bên trên vực thẳm. Lần đầu tiên, một nỗi kinh hoàng nhắc nàng nhớ ra mình là đàn bà. Khoảng trống làm nàng khiếp đảm. - Tôi không tin nàng lại sợ đâu - Felten nói. - Không sao, không sao - Milady nói - Em sẽ nhắm mắt leo xuống. - Em có tin tưởng ở tôi không? - Felten nói. - Chàng lại phải hỏi thế ư? - Chụm hai bàn tay lại, khoác vào nhau! Được rồi! Felten lấy khăn tay trói hai tay nàng lại rồi trên lượt khăn trói tiếp bằng một chiếc thừng. Milady ngạc nhiên hỏi: - Chàng làm gì vậy? Luồn hai cánh tay qua cổ tôi và đừng sợ gì hết. Nhưng em sẽ làm chàng mất thăng bằng và chúng ta cả hai sẽ tan xương. - Em yên tâm, tôi là thủy thủ mà. - Không để mất một giây, Milady quàng hai cánh tay qua cổ Felten và luồn ra ngoài cửa sổ. Felten bắt đầu từ từ leo xuống từng bậc thang một, bất chấp sức nặng của hai cơ thể và cuồng phong làm đung đưa chiếc thang dây. Bỗng Felten dừng lại. - Có chuyện gì vậy? - Milady hỏi. - Im nào - Felten nói - tôi nghe tiếng chân. - Chúng ta bị phát hiện rồi? Vẫn thấy im lặng. - Không - Felten nói - không có chuyện gì. - Nhưng rút cuộc đó là tiếng động gì vậy? Tiếng bọn tuần tra trên đường đi tuần. - Đương đi tuần ở đâu? - Ngay phía dưới chúng ta. - Bọn chúng sẽ phát hiện ra chúng ta. - Không, nếu không có chớp. - Bọn chúng sẽ chạm phải chân thang. - May sao nó lại bị ngắn mất gần hai mét. - Bọn chúng kia kìa, lạy Chúa? - Im nào! Cả hai vẫn treo lơ lửng, bất động, và không thở, khoảng sáu mét cách mặt đất. Trong khi đó bọn lính phía dưới đang cười đùa. - Thật là một khoảnh khắc khủng khiếp đối với cả hai kẻ chạy trốn. Bọn tuần canh đi qua. Tiếng bước chân xa dần và tiếng rì rầm cũng yếu dần. - Bây giờ - Felten nói - chúng ta thoát rồi. Milady thở phào và ngất đi. Felten tiếp tục trèo xuống. Xuống đến cuối thang, không còn chỗ để chân nữa, chàng ta phải bíu chặt hai tay vào dây thang mà tụt xuống, đến bậc thang cuối cùng, phải dùng hai tay đu mình rồi buông xuống đất. Sau đó, cúi nhặt túi tiền vàng và lấy răng cắn chặt. Rồi bế thốc Milady lên, nhanh chóng đi về phía đối diện với lối đi của bọn tuần tra. Lát sau, chàng ta đã rời khỏi con đường tuần tra, qua các mỏm đá lởm chởm tới bờ biển rồi thổi một tiếng còi. Một tín hiệu tương tự đáp lại. Năm phút sau, một chiếc thuyền với bốn tay chèo hiện ra. Chiếc thuyền vào sát tận gần bờ, nhưng nước không sâu lắm nên không tới hẳn bờ được. Felten lội xuống nước đến tận thắt lưng, không muốn trao cho ai món hàng nặng quý giá. May sao, giông bão bắt đầu tan, tuy biển còn động mạnh. Chiếc thuyền con nhấp nhô trên sóng như một chiếc vỏ dừa, Felten nói: - Chèo nhanh lên ra thuyền buồm. Bốn người miết tay chèo, nhưng biển động quá mạnh, nên không đi được bao nhiêu. - Tuy nhiên cũng xa được lâu đài rồi. Đó là điều chính yếu. Đêm tối mù tối mịt. Từ thuyền hầu như không thể nhìn rõ bờ nữa, lại càng không thể từ bờ nhìn rõ được thuyền. Một chấm đen chao đảo trên biển. Đó là chiếc thuyền buồm. Trong khi con thuyền hết sức lao đi bằng bốn tay chèo, Felten cởi thừng rồi cởi khăn tay buộc hai tay Milady ra. Rồi chàng ta lấy nước biển vẩy lên mặt nàng. Milady thốt lên một tiếng thở dài và mở mắt ra. - Tôi đang ở đâu thế này? - Nàng nói. - Thoát rồi - Viên sĩ quan trẻ trả lời. - Ôi, thoát rồi, thoát rồi ư? - Nàng reo lên - Đúng, đây là trời, đây là biển rồi? Cái không khí tôi đang thở là không khí tự do rồi ôi… cám ơn Felten, cám ơn! Chàng trai trẻ ghì chặt nàng vào ngực mình. - Nhưng tay em làm sao thế này? - Milady hỏi - Cứ như bị kẹp vỡ ra thế này? Quả thật, khí Milady nhắc hai cánh tay, hai cổ tay tím bầm như chết. - Ôi! Felten vừa nói vừa nhìn đôi bàn tay đẹp khẽ lắc đầu. - Ồ không sao, không sao! - Milady vội nói - Bây giờ em nhớ ra rồi. Milady đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Felten đá chân vào túi tiền vàng nói: - Nó đây này. Họ đã tới gần thuyền buồm. Người thủy thủ đứng gác trên boong réo gọi, chiếc thuyền con đáp lại. - Chiếc thuyền buồm nào vậy? - Milady hỏi. - Thuyền tôi thuê cho em đấy. - Đưa em đi tới đâu? - Đến đâu tùy em, miễn là tôi, em hãy ném tôi lên Portsmouth. - Anh định làm gì ở Portsmouth? - Hoàn thành mệnh lệnh của Huân tước De Winter - Felten nói với một nụ cười sầm tối. - Lệnh gì? - Milady hỏi. - Em không hiểu thật ư? - Felten nói. - Không, anh nói rõ ra đi, em xin anh đấy. - Vì ông ta không tin anh nữa, ông ta muốn tự canh giữ lấy, và sai anh thay mặt ông ta mang lệnh lưu đày em cho Buckingham ký. - Nhưng đã không tin anh, sao còn trao cho anh lệnh đó? - Chẳng phải cái lệnh tôi mang đi đã bị niêm phong rồi hay sao. - Đúng vậy. Và anh đến Portsmouth? - Tôi không còn thời gian nữa. Mai đã là 23 và Buckingham đã lên đường cùng với hạm đội của mình rồi. - Hắn đi ngày mai, nhưng đi đâu? - Đến La Rochelle. - Không được để hắn đi! - Milady kêu lên, mất hết bình tĩnh như thường lệ. - Em yên tâm - Felten trả lời -hắn sẽ không đi đâu. Milady vui mừng đến phát run lên. Nàng vừa đọc được trong sâu thẳm trái tim chàng trai trẻ cái chết của Buckingham được viết rất rõ nét. - Felten… - Nàng nói - Anh vĩ đại như (1). - Nếu anh chết, em sẽ chết cùng anh. Đó là tất cả những gì em có thể nói với anh! - Im nào! - Felten nói - Chúng ta đến nơi rồi. Quả thật họ đã đến chiếc thuyền buồm. Felten leo lên thang trước và đưa tay kéo Milady, trong khi mấy người thủy thủ đỡ nàng lên, vì biển còn động mạnh. Một lát sau họ đã ở trên boong. - Ông thuyền trưởng - Felten nói - đây là người mà tôi đã nói với ông, ông phải đưa bà ấy về Pháp an toàn, nguyên vẹn. - Thỏa thuận với nhau là một nghìn đồng pítxtôn vàng - viên thuyền trưởng nói. - Tôi đã đưa trước cho ông năm trăm. - Đúng vậy - Thuyền trưởng nói. - Và đây là năm trăm nữa - Milady nói tiếp, thò tay vào túi tiền vàng. - Không - thuyền trưởng nói - Tôi đã hứa với chàng thanh niên này khi nào tới Bulônhơ, tôi mới lấy nốt năm trăm. - Và chúng ta sẽ tới chứ? - Hoàn toàn bình yên vô sự - Thuyền trưởng nói - cũng đúng như tên tôi là Jéc Butler vậy(2). - Này ông? - Milady nói - Nếu ông giữ đúng lời hứa, thì không phải là năm trăm mà tôi sẽ trả ông một nghìn nữa. - Thế thì hoan hô bà, phu nhân kiều diễm ạ - viên thuyền trưởng hét lên - cầu trời luôn gừi cho tôi những khách thuê thuyền như quý bà! - Trong khi chờ đợi - Felten nói - hãy đưa chúng tôi vào cái vịnh nhỏ…, ông nhớ đã thỏa thuận đưa chúng tôi vào đấy. Viên thuyền trưởng đáp lại bằng cách ra lệnh điều khiển thuyền theo hướng đó và bẩy giờ sáng, con thuyền nhỏ đã cắm neo ở cái vịnh đã nói. Suốt lúc thuyền đi, Felten đã kể lể với Milady, đáng lẽ đi London, anh ta đã thuê con thuyền này thế nào, đã trở về thế nào, đã leo tường bằng cách leo đến đâu, lại đặt móc dẫm chân vào kẽ đá đến đấy thế nào, và cuối cùng đã đến được song sắt, đã buộc được thang dây ra sao. Phần còn lại, Milady đã biết. Về phần mình, Milady cố khích lệ Felten trong dự định của anh ta. Nhưng vừa thốt ra mấy lời đầu tiên, nàng đã nhận thấy ngay chàng thanh niên cuồng tín đó cần được làm cho ôn hòa hơn là làm cho quyết liệt hơn. Hai người thỏa thuận Milady đợi Felten đến mười giờ. Nếu mười giờ chàng ta không quay lại, nàng cứ đi. Lúc đó, giả dụ anh chàng được tự do, anh ta sẽ sang Pháp, gặp lại nàng ở tu viện nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn. Chú thích: (1) Juda Maccabcus - Một chiến binh anh hùng Do thái đã lãnh đạo thành công cuộc nổi dậy chống ách thống trị của Xyri thế kỷ thứ 2 trước Cóng nguyên, gần thành phố Jeruxalem. (2) Butler (tíếng Anh) - có nghĩa là quản gia, sẽ chăm lo mọi việc chu đáo |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:51 | |
| Chương 59
Điều diễn ra ở Portsmouth ngày 23 tháng 8 năm 1628. Felten từ biệt Milady như một người anh sắp làm một cuộc dạo chơi đơn giản từ biệt em gái mình nên chỉ hôn tay. Toàn bộ con người anh ta tựa như vẫn trong trạng thái yên tĩnh thông thường. Duy chỉ có một tia sáng xưa nay không thấy lấp lánh trong đôi mắt anh ta, giống như đang cơn sốt, trán anh ta tái hơn ngày thường, răng nghiến chặt, nói năng cộc lốc, nhát gừng, chỉ ra có một cái gì đầy u ám đang xáo động trong lòng. Còn ngồi trên con thuyền đưa vào bờ, anh còn quay mặt hướng về phía Milady, lúc này cũng đứng trên boong tàu dõi mắt nhìn theo. Cả hai đã khá yên tâm không sợ bị truy đuổi nữa. Người ta không bao giờ vào buồng Milady trước chín giờ. Và từ lâu đài đến London phải đi mất ba giờ. Felten đặt chân lên bờ, trèo lên một mỏm đá để lên kè, chào Milady lần cuối rồi đi về thành phố. Được khoảng một trăm bước, vì địa hình dốc xuống, chàng ta chỉ còn nhìn thấy cột buồm thôi. Chàng ta chạy ngay về phía Portsmouth, ở ngay trước mặt chỉ cách nửa dặm đường, mà nhà cửa, các đỉnh tháp nổi bật lên trong sương mù. Ngoài khơi Portsmouth, trên biển san sát những hạm thuyền cột buồm dựng lên trông như một rừng liễu trụi lá mùa đông đu đưa trong gió. Felten rảo bước, vừa ôn lại những suy nghĩ của mình hai năm qua và một thời gian dài sống giữa những người Thanh giáo, những cái đã khiến chàng ta đi đến chỗ buộc tội sủng thần của vua Jacques 6 và Charles I(1). Khi so sánh những tội ác công khai của viên Thủ tướng đó, những tội ác nổi tiếng khắp châu Âu nếu có thể nói như vậy với những tội ác riêng tư, không ai biết mà Milady đã gán cho ông ta, chàng ta thấy trong hai con người chứa trong một Buckingham ấy, kẻ đáng tội hơn chính là kẻ có đời tư mà quần chúng không hề biết đến. Chính là thứ tình yêu quá kỳ lạ, quá mới mẻ, quá cuồng nhiệt của anh ta đã khiến cho anh ta nhìn nhận những lời buộc tội ti tiện và bịa đặt của phu nhân De Winter giống như qua kính phóng đại người ta nhìn những nguyên tử vi mô bên một con kiến thành những con quái vật rùng rợn. Càng đi nhanh anh ta càng sôi máu. Ý nghĩ phải để mặc phía sau người đàn bà anh ta yêu, đúng hơn là tôn thờ như một nữ thánh hứng chịu trước một sự báo thù khủng khiếp, sự xúc động vừa qua, sự mệt mỏi hiện tại, tất cả vẫn còn gây phấn khích cho tâm hồn anh ta vượt lên trên tình cảm con người. Felten vào hải cảng Portsmouth lúc tám giờ sáng. Dân chúng đã đi làm. Tiếng trống khua trên các phố phường và trên bến cảng. Những toán quân sắp lên tàu đi về phía biển. Felten đến dinh Đô đốc, người đầy bụi và đẫm mồ hôi, da mặt bình thường rất tái nay bầm tím vì trời nóng và giận dữ. Người lính canh muốn đẩy anh ta đi, nhưng Felten gọi viên trưởng đồn và rút túi ra một phong thư mang theo và nói: - Thông điệp khẩn của Huân tước De Winter. Nghe tên Huân tước De Winter mà ai cũng biết là một trong những người thân cận nhất của Quận công, viên đồn trưởng ra lệnh cho Felten đi qua, hơn nữa bản thân chàng ta cũng mặc binh phục sĩ quan thủy quân. Felten lao thẳng vào lâu đài. Đúng lúc anh ta vào tiền sảnh thì một người đàn ông cũng bước vào, người đầy bụi, thở dốc, để ngoài cửa một con ngựa trạm quỵ hai gối xuống vì mệt. Felten và người này cùng một lúc đều ngỏ lời với Patrích, người hầu tin cẩn của Quận công. Felten nêu tên Huân tước De Winter. Người lạ không chịu nói ra tên ai và đòi chỉ có thể xưng tên với mỗi quận công thôi, cả hai đều nài xin được gặp trước. Patrích vì đã biết Huân tước De Winter đang có những công vụ và có quan hệ thân thiết với Quận công, nên ưu tiên cho người nhân danh Huân tước. Người kia buộc phải đợi và dễ thấy ông ta thầm rủa sự chậm trễ này biết chừng nào. Người hầu phòng dẫn Felten đi xuyên qua một phòng lớn, trong đó những đại diện của La Rochelle do hoàng thân De Xubidơ dẫn đầu đang ngồi chờ, rồi dẫn vào phòng của Buckingham vừa tắm xong, và lần này cũng như mọi khi ông ta thường chăm chút chải chuốt cực kỳ cẩn thận. - Trung úy Felten - Patrích nói - do Huân tước De Winter phái đến. - Do huân tước De Winter à? - Buckingham nhắc lại - cho anh ta vào. Felten vào. Đúng lúc ấy, Buckingham ném lên tràng kỷ một chiếc áo ngủ thêu sợi vàng rất sang để khoác vào người chiếc áo chẽn bằng nhung xanh đính đầy ngọc trai. - Tại sao Huân tước không đích thân đến nhỉ? - Buckingham hỏi - Ta vẫn đợi ông ấy sáng nay. - Huân tước sai tôi thưa với Đức ông, - Felten trả lời - là ngài rất tiếc không đến hầu Đức ông được, ngài bị vướng vào chuyện canh gác lâu đài. - Phải, phải - Buckingham nói - Ta biết việc ấy, ông ấy có một nữ tù nhân. - Chính là về việc nữ tù nhân đó mà tôi muốn thưa chuyện với Đức ông - Felten nói tiếp. - Vậy thì nói đi! Điều tôi nói với ngài chỉ có thể riêng mình ngài nghe thôi ạ. - Patrích, để mặc chúng ta - Buckingham nói - Nhưng anh phải đứng chờ chuông gọi, lát nữa ta sẽ gọi anh. Patrích đi ra. - Bây giờ chỉ còn mỗi chúng ta thôi - Buckingham nói - Ông nói đi. - Thưa Đức ông, Huân tước De Winter hôm nọ có viết thư yêu cầu ngài ký lệnh tống xuống tàu một thiếu phụ tên là Sáclốt Bếchxơn. - Phải, ta đã trả lời ông ấy là mang đến cho ta, hoặc gửi cho ta tờ lệnh ấy và ta sẽ ký. - Lệnh đây, thưa ngài. - Đưa ta xem - Quận công nói. Và cầm tờ lệnh từ tay Felten, ông ta đưa mắt xem qua tờ giấy. Thấy đúng tên người đã được thông báo, ông đặt lên bàn, cầm bút và chuẩn bị ký. - Xin Đức ông thứ lỗi - Felten vừa nói vừa ngăn Quận công lại - nhưng Đức ông chắc biết cái tên Sáclốt Bếchxơn không phải là tên thực của thiếu phụ đó? - Phải, ta biết, ông ạ - Quận công vừa trả lời vừa chấm bút vào lọ mực. - Vậy thì, Đức ông hẳn biết tên thực của người ấy? - Felten hỏi bằng một giọng cộc lốc. - Ta biết chứ. Quận công đưa bút lại gần tờ giấy. Felten tái người đi: - Và biết rõ cái tên thực ấy - Felten hỏi lại - mà Đức ông vẫn ký sao? - Hẳn rồi - Buckingham nói - và ký đến hai lần hơn là một lần ấy chứ. - Tôi không thể tin nổi - Felten tiếp tục bằng một giọng mỗi lúc một cộc lốc và nhát gừng hơn. Đức ông biết đó là việc của phu nhân De Winter. - Ta hoàn toàn biết rõ, dù ta rất ngạc nhiên anh cũng biết chuyện đó. - Và Đức ông sẽ ký lệnh đó mà không hối hận ư? Buckingham ngạo nghễ nhìn chàng trai trẻ và bảo chàng ta: - Ra thế cơ đấy? Thưa ông, chắc ông biết rõ là ông hỏi ta những câu hỏi kỳ quái đấy và ta có quá ngốc đâu mà đi trả lời? - Đức ông hãy trả lời đi - Felten nói - tình thế có lẽ nghiêm trọng hơn là ngài tưởng đấy. Buckingham nghĩ chàng trai trẻ này do Huân tước De Winter phái đến, chắc ỷ thế ông ta mới nói năng như vậy, liền dịu giọng lại: - Không ân hận chút nào và Huân tước cũng như ta, biết rõ Milady de Winter là một đại tội phạm, và giới hạn hình phạt ở tội lưu đày cũng đã là gia ân cho mụ rồi. Quận công đưa bút lên tờ giấy. - Đức ông, ngài sẽ không ký cái lệnh đó? - Felten vừa nói vừa tiến một bước gần lại Quận công. - Ta sẽ không ký cái lệnh đó - Buckingham nói - Và tại sao vậy? - Bởi chính ngài sẽ đổi lại lệnh đó, ngài sẽ trả lại công bằng cho Milady. - Trả lại công bằng cho mụ thì phải đưa mụ ra pháp trường Tybum - Buckingham nói - Milady là một kẻ đê mạt. - Thưa Đức ông, Milady là một thiên thần, ngài biết rõ điều đó tôi yêu cầu ngài thả tự do cho nàng. - Ồ lại đến thế kia ư? - Buckingham néi - Ông có điên không mà lại nói với tôi như thế? - Thưa Đức ông, xin thứ lỗi cho tôi? Có thể nói sao, tôi nói vậy. Tôi đã kiềm chế. Tuy nhiên, xin Đức ông hãy nghĩ kỹ việc ông sắp làm, và hãy biết sợ, đừng có quá đáng! - Hay đấy nhỉ?… Cầu Chúa tha thứ cho con! - Buckingham kêu lên - Nhưng con tin là hắn ta đang dọa con! - Không, thưa Đức ông. Tôi vẫn đang xin ông. Và tôi nói để ông biết: Một giọt nước đủ làm tràn bình nước đầy, một lỗi nhẹ có thể dẫn đến sự trừng phạt trút lên đầu kẻ đã được bỏ qua biết bao tội ác. - Ông Felten - Buckingham nói - Ông ra ngay khỏi đây và sẽ bị bắt ngay tại chỗ. - Đức ông, ông sẽ nghe tôi nói kết đã. Ông đã quyến rũ thiếu nữ đó, đã làm nhục cô ta, làm cô ta nhơ nhuốc, ông hãy sửa chữa tội ác của ông đối với cô ta, để cho cô ta ra đi tự do, và tôi sẽ chẳng đòi hỏi điều gì khác ở ông. - Ông sẽ không đòi hỏi gì ư? - Buckingham vừa nói vừa nhìn Felten, hết sức lạ lùng, và nhấn mạnh từng âm tiết câu vừa nói. - Quận công - Felten tiếp tục, càng nói càng phấn khích - hãy coi chừng, toàn thể nước Anh đều chán ngán những bất công của ông rồi. Quận công, nếu ông lạm dụng vương quyền mà hầu như ông đã đoạt ngôi rồi, Quận công, ông phải biết mọi người và Chúa kinh tởm ông. Chúa sẽ trừng phạt ông sau, nhưng tôi, tôi sẽ trừng phạt ông hôm nay. - A, thế này thì quá thể rồi? - Buckingham vừa kêu lên vừa bước một bước về phía cửa. Felten ngăn lại. - Tôi nhã nhặn yêu cầu ông - anh ta nói - hãy ký lệnh trả tự do cho phu nhân De Winter. Nên nhớ đó là người phụ nữ mà ông đã làm nhục. - Lui ra ngay! - Buckingham nói - nếu không ta sẽ gọi người gông cổ anh lại. - Ông không gọi được đâu - Felten vừa nói vừa nhảy phắt lại đứng giữa quận công và chiếc chuông đặt trên chiếc bàn xoay nạm bạc - hãy coi chừng, Quận công, ông đang trong tay của Chúa đấy. - Trong tay của quỷ sứ thì có - Buckingham kêu lên và to giọng để làm mọi người chú ý, tuy không gọi trực tiếp. - Ký đi, Quận công, ký trả tự do cho phu nhân De Winter - Felten vừa nói vừa đẩy tờ giấy về phía Quận công. - Ép ta ư? Nhạo ta đấy ư? Patrích đâu? - Ký đi, Quận công! - Không bao giờ. - Không bao giờ ư? - Cứu ta? - Quận công kêu to, đồng thời vồ lấy gươm. Nhưng Felten không để ông ta kịp rút gươm, anh ta phanh ngực rút con dao mà Milady đã từng tự đâm mình nhảy xổ vào Quận công. Đúng lúc đó, Patrích vào phòng và kêu lên. - Thưa Đức ông, một bức thư từ nước Pháp. - Từ Pháp ư? - Buckingham kêu lên, quên hết và chỉ nghĩ đến người đã gửi bức thư. Felten lợi dụng lúc đó đâm ngập con dao vào sườn ông ta đến tận chuôi. - A! Quân phản bội - Buckingham thét lên - mi giết ta rồi. - Giết người! Patrích hét lên. Felten liếc mắt nhìn quanh để chạy trốn và thấy chiếc cửa mở liền lao sang phòng bên là phòng những đại diện của La Rochelle đang đợi, chạy xuyên qua và lao xuống cầu thang. Nhưng ngay bậc đầu tiên, anh ta gặp phải Huân tước De Winter. Thấy anh ta tái mét, nhớn nhác, tay, mặt đều đầy máu, ông vồ lấy cổ anh ta và kêu lên: - Ta biết mà, ta đoán ra chậm mất một phút thôi! Ôi, khốn nạn, khốn nạn cái thân ta! Felten không kháng cự lại gì cả, ông De Winter trao hắn tận tay cho bọn lính canh giải hắn đến một sân trời nhỏ nhìn xuống biển, đợi lệnh mới, rồi lao vào phòng Buckingham. Nghe tiếng kêu của Quận công rồi tiếng gọi Patrích, người đàn ông mà Felten gặp trong phòng đợi cũng nhảy bổ vào căn phòng. Người này thấy quận công nằm trên ghế dài, tay bịt chặt vết thương. - La Porte. - Quận công nói bằng giọng hấp hối. - La Porte, Hoàng hậu sai ông đến ư? - Vâng, thưa Đức ông - viên hầu cận trung thành của Anne Autriche trả lời - nhưng có lẽ đã quá muộn. - Im nào, La Porte! Người ta có thể nghe thấy ông đấy! Patrích không được để ai vào. Ôi, ta sẽ không được biết nàng nói gì với ta mất? Trời ơi, ta chết mất. Và Quận công ngất đi. - Tuy nhiên, Huân tước De Winter, các đại diện, các vị chỉ huy cuộc viễn chinh, những sĩ quan nội phủ dinh Buckingham đều tràn vào căn phòng. Đâu đâu cũng vang lên những tiếng kêu khóc tuyệt vọng. Lâu đài tràn ngập tiếng kêu than rền rĩ, chả mấy lúc tin tức đã tràn ra lan khắp thành phố. Một phát đại bác báo hiệu vừa xảy ra một chuyện gì mới và bất ngờ. Huân tước De Winter bứt tai bứt tóc. - Chậm mất một phút! Ôi Chúa ơi, bất hạnh thế này ư? Quả thật, lúc bảy giờ sáng người ta đến báo cho ông biết một chiếc thang dây bồng bềnh dưới một chiếc cửa sổ của lâu đài, ông chạy ngay đến phòng Milady, thấy phòng trống, cửa sổ mở, song sắt bị cưa, chợt nhớ lại lời dặn mồm mà D Artagnan đã chuyển đến cho ông qua sứ giả của chàng, ông run lên lo cho Quận công, vội chạy ra chuồng ngựa, chẳng kịp đóng yên, vớ con nào, nhảy luôn lên con ấy, phi rạp bụng ngựa sát đất nhảy xuống sân dinh phủ, chạy vội lên cầu thang rồi gặp Felten ngay cầu thang. Tuy nhiên Quận công chưa chết. Ông tỉnh lại, mở mắt, mọi người lại thấy hy vọng. - Thưa các vị - Ông nói - xin để mình tôi với Patric và La Porte. A! Ông đấy ư, ông De Winter? Sáng nay ông đã sai đến tôi một thằng điên quái gở, ông xem nó đã làm tôi ra nông nỗi này đây? - Ôi, thưa Quận công - Huân tước kêu lên - Tôi sẽ chẳng bao giờ hết ân hận về chuyện này. - Và anh đã nhầm đấy, anh De Winter thân yêu của tôi - Buckingham vừa nói vừa chìa tay cho De Winter -Tôi không biết con người nào lại được một người khác tiếc thương suốt đời cả, nhưng thôi mặc chúng tôi, tôi xin anh đấy. Huân tước vừa đi ra vừa thổn thức. Trong phòng chỉ còn lại Quận công bị thương, La Porte và Patrích. Người ta đi tìm thầy thuốc, nhưng không tìm được. - Đức ông, ngài sẽ sống, ngài sẽ sống - viên hầu cận trung thành của Anne d Autriche quỳ trước ghế dài Quận công nằm, nhắc đi nhắc lại. - Nàng viết cho ta thế nào? - Buckingham đầm đìa máu cố át đi những đau đớn dữ dội để hỏi về người mình yêu bằng một giọng thều thào - Nàng viết gì cho ta? Đọc cho ta nghe đi. - Ồ thưa Đức ông! - La Porte nói. - Tuân lệnh đi, La Porte, ông không thấy ta không còn mấy thời gian nữa ư? La Porte bẻ dấu xi và giơ bức thư trước mắt Quận công, nhưng Buckingham có cố cũng không phân biệt nổi chữ nữa. - Đọc đi - Ông nói - đọc đi nào, ta không trong thấy nữa, đọc mau lên, chả có ta lại còn không nghe được ấy chứ, và ta sẽ chết mà không biết được nàng viết gì cho ta. "Quận công. Từ ngày quen biết ông, tôi đã từng đau khổ do ông và vì ông. Vì vậy tôi cầu xin ông, nếu còn muốn cho tôi được thư thái, thì hãy chấm dứt việc rầm rộ vũ trang chông lại nước Pháp và dừng cuộc chiến lại. Cuộc chiến ấy, người ta nói ầm lên rõ ràng là do nguyên nhân tôn giáo và thầm thì tình yêu của ông đối với tôi là nguyên nhân che giấu bên trong. Cuộc chiến ấy không những có thể đem lại cho nước Pháp và nước Anh những thảm họa lớn mà còn cho ông, Huân tước ạ, những bất hạnh mà tôi sẽ ân hận vô cùng. Người ta đang đe dọa tính mạng ông, xin ông hãy đề phòng, bởi nó rất quý đối với tôi kể cả lúc tôi sẽ bị buộc phải coi ông như một kẻ thù. Người được ông yêu mến, Anne. Buckingham thu hết tàn lực nghe đọc bức thư, khi người ta đọc xong, ông như thể thấy trong thư một nỗi thất vọng cay đắng, liền hỏi: - Vậy ông không còn một điều gì khác dặn miệng để nói với ta ư, La Porte? - Có chứ, thưa Đức ông, Hoàng hậu dặn tôi nói với Đức ông phải hết sức giữ gìn bởi bà được tin người ta định ám sát Đức ông. - Có thế thôi ư, thế thôi ư? - Buckingham sốt ruột hỏi. - Bà còn dặn tôi nói với Đức ông bà vẫn luôn yêu ông. - Có thế chứ! - Buckingham mừng rỡ - Đội ơn Chúa! Cái chết của ta sẽ không phải là cái chết của một người xa lạ đối với nàng. La Porte đầm đìa nước mắt. - Patrích - Quận công nói - đem cho ta cái tráp đựng những nút kim cương ra đây. Patrích đem tráp ra và La Porte nhận ngay ra là của Hoàng hậu. - Bây giờ, mang cái túi xa tanh trắng thêu tên tắt của nàng bằng ngọc trai ra đây. Patrích lại vâng lời. - Cầm lấy, La Porte - Buckingham nói - đây là những tín vật duy nhất ta có với nàng, cái tráp bạc và hai chữ tắt ấy. Ông hãy đưa lại cho lệnh bà, và để làm kỷ niệm cuối cùng (ông đưa mắt tìm quanh xem có vật nào quý), ông mang theo về cho nàng. - Ông vẫn tìm, nhưng đôi mắt đã mờ đi vì cái chết gần kề, đôi mắt chỉ còn thấy con dao từ tay Felten rơi xuống và còn sôi máu tươi trên khắp lưỡi dao. - Và ông mang theo con dao ấy! - quận công vừa nói vừa siết chặt tay La Porte. - Ông vẫn còn có thể bỏ chiếc túi vào trong cái tráp bạc, và buông con dao vào đấy, ra hiệu cho La Porte mình không thể nói được nữa. Rồi lần này trong cơn vật vã cuối cùng, ông không thể chống lại được nữa, và lăn từ ghế dài xuống sàn nhà. Patrích thét lên một tiếng. Buckingham muốn mỉm cười lần cuối nữa, nhưng cái chết đã chặn đứng lại dòng suy nghĩ vẫn còn hằn lại trên trán ông như một nụ hôn cuối cùng của tình yêu. Lúc đó, thầy thuốc của Quận công mới hớt hải chạy tới. Ông ta ở trên tàu đô đốc, nên người ta phải đến tận đấy tìm ông. Ông lại gần Quận công, cầm tay ông ta, giữ một lúc trong tay mình và buông rơi xuống rồi nói: - Vô ích thôi, ông ấy chết rồi. - Chết ư, chết ư? - Patric kêu lên. Nghe tiếng kêu, cả đám người ùa vào gian phòng, đâu đâu cũng thất kinh và huyên náo. Thấy Buckingham vừa tắt thở, Huân tước De Winter chạy ngay đến chỗ Felten mà bọn lính vẫn canh giữ trên chiếc sân trời nhỏ. - Quân khốn kiếp? - Ông nói với chàng trai trẻ mà từ lúc Buckingham chết anh ta đã lấy lại được sự gan góc và bình thản chẳng bao giờ mất nữa - Khốn kiếp! Mày đã làm gì? - Tôi trả thù! - gã nói. - Mày trả thù ư? - Huân tước nói - mày nói mày đã thành công cụ cho con đàn bà trời đánh thì hơn. Nhưng tao thề với mày, tội ác này sẽ là tội ác cuối cùng của nó. - Tôi không hiểu ông định nói gì - Felten bình tĩnh trả lời - - Và thưa Huân tước, tôi không biết ông định nói về ai đây. Tôi giết ông De Buckingham bởi ông ta đã hai lần từ chối chính ông phong tôi chức đại úy. Tôi trừng phạt sự bất công của ông ta, có thế thôi. De Winter, choáng người, nhìn những người đang trói hắn ta và không biết nghĩ thế nào về sự vô cảm đến thế. Tuy nhiên có một điều duy nhất phủ một đám mây lên vầng trán trong trắng của hắn ta. Mỗi tiếng động hắn nghe thấy, tên Thanh giáo ngây thơ ấy lại tưởng như nhận ra tiếng chân và giọng nói của Milady lao vào trong vòng tay hắn để tự cáo buộc mình và cùng chết với hắn ta. Bỗng hắn giật mình, mắt hắn chăm chăm nhìn vào một chấm đen trên biển mà đối với người khác thì đó chỉ là một con ó biển bồng bềnh trên sóng. Nhưng từ nơi sân thượng hắn đang đứng này có thể bao quát tất cả và với con mắt chim ưng thủy thủ, hắn ta nhận ra cánh buồm của chiếc thuyền buồm đang hướng về bờ biển nước Pháp. Hắn tái mặt, đưa tay lên bóp chặt trái tim đang tan nát và hiểu ra hoàn toàn sự phản bội. - Thưa Huân tước, xin cho tôi được hưởng một ân huệ cuối cùng - Hắn nói với Huân tước. - Ân huệ gì? - Huân tước hỏi. - Bây giờ là mấy giờ rồi ạ? - Chín giờ kém mười lăm - Huân tước rút đồng hồ ra xem nói. Milady đã khởi hành trước thời hạn một tiếng rưỡi. Ngay khi nghe tiếng đại bác báo biến cố trọng đại, đã ra lệnh nhổ neo. Con thuyền đang lướt đi dưới bầu trời xanh ngắt và đã cách rất xa bờ. - Chúa đã muốn như vậy - Hắn ta nói với sự nhẫn nhục của một kẻ cuồng tín, tuy mắt vẫn không rời khỏi con thuyền đó và hắn tưởng như chắc chắn có thể phân biệt rõ cái bóng ma trắng toát ở mạn thuyền của mụ đàn bà mà vì mụ hắn sắp phải vong mạng. Ông De Winter nhìn theo con mắt hắn ta, để xem vì đâu hắn đau đớn và đã đoán ra tất cả. - Quân khôn kiếp, mày hãy chịu trừng phạt mình mày trước đã! - Huân tước nói với Felten, mắt vẫn đang bị hút về phía biển - Nhưng ta thề với mày, trên hương hồn của anh ta mà ta yêu quý biết mấy, cái con đồng phạm của mày không thoát nổi đâu. Felten cúi đầu không nói một lời. Còn ông De Winter, ông bước nhanh xuống cầu thang và đi về phía cảng. Chú thích: (1) Tức Buckingham |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:51 | |
| Chương 60:
Bên nước Pháp. Nỗi lo sợ đầu tiên của Vua nước Anh, Charles đệ nhất, khi được tin cái chết ấy, là sợ cái tin vô cùng khủng khiếp ấy sẽ làm quân Rochelle mất hết lòng can đảm. Richelieu viết trong những hồi ký của mình là Vua Anh cố giấu họ càng lâu càng tất, cho đóng cửa toàn bộ các hải cảng của vương quốc Anh, canh phòng rất cẩn thận không cho tàu nào ra khỏi, cho đến khi đạo quân mà Buckingham đã chuẩn bị trước đó lên đường. Nhà Vua, thay vì Buckingham, sẽ đích thân đảm nhiệm giám sát việc khởi hành. Nhà Vua còn đẩy lệnh này nghiệt ngã lên đến mức giữ lại ở Anh quốc sứ thần Đan Mạch đã cáo biệt vì hết nhiệm kỳ, và sứ thần đương nhiệm Hà Lan phải đưa trở về cảng Flétxinhgơ những chủ nhiệm tàu Ấn Độ mà Vua Charles đệ nhất trao trả. Nhưng vì ông chỉ nghĩ tới việc ban ra lệnh ấy sau biến cố kia những năm tiếng đồng hồ nghĩa là vào khoảng hai giờ chiều, hai chiếc tàu đã ra khỏi cảng. Một chiếc mang theo Milady(1). Lúc đầu mụ còn nghi ngờ về biến cố, nhưng khi nhìn thấy cờ đen xõa trên cột buồm tàu đô đốc, mụ lại càng tin chắc hơn. Còn con tàu thứ hai, nó chở ai đi và ra đi thế nào, sẽ nói sau. Hơn nữa, trong thời gian đó, chẳng có gì mới ở trận tuyến Rochelle. Chỉ có nhà Vua là vẫn cứ phiền não như mọi khi, mà có lẽ có đôi chút phiền não hơn ở nơi trận truyến nên quyết định cải trang đi tham dự các lễ hội Thánh Louis và Thánh Germain và đã yêu cầu Giáo chủ chuẩn bị cho mình một đoàn hộ tống độ hai mươi ngự lâm quân thôi. Giáo chủ đôi khi cũng bị lây nỗi phiền muộn của nhà Vua, nên rất vui vẻ cho viên phụ tá của mình nghỉ phép để đi cùng nhà Vua, ông này hứa sẽ trở về ngày 15 tháng chín. Ông De Treville được Giáo chủ báo trước, liền chuẩn bị hành lý và vì, không rõ tại sao ông lại biết được cái nguyện vọng tha thiết, thậm chí là nhu cầu khẩn yếu của các bạn trẻ của mình là được trở về Paris, nên không cần nói cũng biết ông chỉ định họ tham gia đoàn hộ tống. Bốn chàng biết tin sau ông De Treville mười lăm phút, bởi họ là những người đầu tiên được ông thông báo, lúc này D Artagnan mới thấy quý sự biệt đãi mà Giáo chủ đã ban cho chàng được chuyển sang ngự lâm quân, không có chuyện đó chàng đã buộc phải ở lại trận tuyến trong khi các bạn ra đi. Không nói cũng rõ việc nóng ruột trở về Paris có nguyên nhân là mối nguy hiểm mà bà Bonacieux sẽ gặp phải khi chạm trán với Milady, kẻ tử thù của bà ở tu viện Bêtuyn. Vì vậy Aramis đã viết ngay thư cho Marie Mítsông, cô thợ may ở Tours vốn có những mối quen biết rất thần thế, để xin hoàng hậu cho phép bà Bonacieux được ra khỏi tu viện, rút lui về sống ở Lôren hoặc ở Bỉ. Chẳng phải đợi lâu tám chín ngày sau Aramis đã nhận được thư trả lời. "Anh họ thân yêu của em. Đây là giấy phép của chị em cho rút cô bé nữ tì của chúng ta ra khỏi tu viện Bêtuyn, mà anh thấy không khí ở đấy không hợp với cô bé. Chị em gừi cho anh giấy phép này mà trong lòng rất vui bởi chị ấy yêu cô bé lắm, và vẫn dành cho cô bé sự giúp đỡ sau này". Kèm theo thư là một giấy phép như sau: "Bà nhất tu viện Bêtuyn sẽ trao tận tay người trao cho bà giấy này, nữ tu sĩ mới tới và đã vào tu viện của bà dưới sự ủy nhiệm và bảo trợ của ta. Điện Louvre ngày 10 tháng 8 năm 1628 Anne" Người ta thừa hiểu mối quan hệ họ hàng giữa Aramis và cô thợ may gọi Hoàng hậu bằng chị đã làm mấy người bạn trẻ hứng thú đến thế nào. Nhưng Aramis, sau hai ba lần đỏ mặt đến tận lòng trắng con mắt trước những câu đùa tục tĩu của Porthos, đã yêu cầu các bạn mình đừng trở lại chủ đề ấy nữa và tuyên bố nếu còn nói với chàng dù chỉ một lời về chuyện này, chàng sẽ không sử dụng cô em họ mình làm trung gian cho những việc loại này nữa. Vậy là không còn vấn đề Marie Mítsông giữa bốn chàng ngự lâm nữa, vả lại họ đã có được điều họ mong muốn, đó là lệnh rút bà Bonacieux ra khỏi tu viện những nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn. Đúng là, cái lệnh đó sẽ chẳng giúp được họ bao nhiêu nếu họ vẫn còn ở trận tuyến La Rochelle, nghĩa là ở đầu kia nước pháp. Vì vậy D Artagnan đã toan xin ông De Treville cho nghỉ phép, bằng cách thổ lộ hết với ông tầm quan trọng của việc ra đi, thì cái tin nhà Vua sắp đi Paris với một đoàn hộ tống hai mươi ngự lâm quân và D Artagnan cùng các bạn được tham gia đoàn, được chuyển tới mấy người. Niềm vui thật lớn lao. Họ sai những người hầu đi trước cùng với hành lý và họ lên đường sáng hôm sau. Giáo chủ ra tiễn Hoàng thượng từ Xuyếcgie đến Môzê và đến đó, nhà Vua và Giáo chủ từ biệt nhau rất thân tình. Nhà Vua mặc dầu muốn càng đi nhanh càng tốt để ngày 23 về đến Paris, nhưng lại thích giải phiền, nên dọc đường thỉnh thoảng lại dừng lại săn chim ác là, một trò tiêu khiển trước đây chịu ảnh hưởng của Công tước Luynơ(2) mà nhà Vua vẫn luôn luôn ham thích. Trong số hai mươi ngự lâm quân, thì mười sáu người rất lấy làm vui thích mỗi khi dừng lại như thế, còn bốn người kia thì lại không tiếc lời nguyền rủa. Nhất là D Artagnan, lúc nào cũng như có tiếng ong ong trong tai, điều đó được Porthos giải thích: - Một vị đại phu nhân bảo tớ, thế là có ai đó đang mong cậu đấy! Rốt cuộc, đoàn hộ tống cũng vào Paris đêm 23. Nhà vua cám ơn ông De Treville và cho phép ông được cho quân mình nghỉ bốn ngày phép với điều kiện không một ai trong số được đặc ân ấy lộ mặt ở nơi công cộng, nếu không sẽ phạt tội tống ngục Bastille. Bốn người đầu tiên được nghỉ phép đương nhiên là bốn người bạn. Hơn nữa, Athos còn được ông De Treville cho sáu ngày thay vì bốn, lại còn thêm vào đấy hai đêm, họ được đi vào lúc năm giờ chiều 24, nhưng để làm vừa lòng họ, ông lại tính phép vào sáng ngày 25. - Ơ hay, lạy Chúa? - D Artagnan vốn chẳng bao giờ nghi ngờ điều gì nói - Tôi thấy hình như chúng ta đang làm rắc rối thêm cái điều hoàn toàn đơn giản. Chỉ cần hai ngày, phi ngựa chí tử, thay vài ba con (cần cóc gì, tôi có tiền mà) là tôi đã đến được Bêtuyn, tôi sẽ trao thư của Hoàng hậu cho bà nhất và tôi sẽ đưa kho báu thân yêu mà tôi vẫn đi tìm không phải về Lôren, cũng không về Bỉ, mà về Paris, ở đấy giấu tốt hơn, nhất là chừng nào Giáo chủ còn ở La Rochelle. Rồi, một khi đã từ chiến dịch trở về thì lúc đó, một phần được sự che chở của bà chị họ của nàng, một phần được đặc ân do những gì chúng ta đã làm cho Hoàng hậu, chúng ta sẽ được Hoàng hậu ban cho điều chúng ta mong muốn. Các vị cứ ở lại đây, làm gì phải đi đâu cho nó mệt người vô ích, chỉ cần tôi và Planchet là đã đủ cho một cuộc viễn chinh quá ư đơn giản đến thế. Nghe vậy, Athos điềm tĩnh trả lời: - Thì bọn mình, bọn mình cũng có tiền chứ. Bởi mình đã uống hết phần tiền bán kim cương đâu và Porthos, Aramis cũng đều chưa ăn hết. Chúng mình có thể cho toi đến bốn con mỗi người ấy chứ. Nhưng nghĩ kỹ đi D Artagnan - Athos nói thêm bằng một giọng quá u uất khiến chàng trai nghe cũng phải rùng mình - hãy nghĩ rằng Bêtuyn là một thành phố, nơi Giáo chủ đã có cuộc hẹn với một người đàn bà đi đến đâu mang theo bất hạnh tới đó. D Artagnan, nếu đây là công việc chỉ liên quan đến bốn người đàn ông chúng ta, thì tôi sẽ để cậu đi một mình. Nhưng cậu lại có chuyện với con mụ ấy, thì chúng ta phải đi cả bốn đến đó và cầu Chúa phù hộ, cùng với bốn người hầu của chúng ta, chúng ta sẽ đủ chơi. - Athos, anh làm tôi phát hoảng đấy - D Artagnan nói - Lạy Chúa, mà anh sợ cái gì mới được chứ? - Sợ tất - Athos đáp. D Artagnan quan sát vẻ mặt các bạn, thấy đều như Athos cả đều mang dấu lo lắng sâu xa. Thế rồi họ tiếp tục lên đường, cho ngựa phóng hết cỡ, không nói thêm một lời. Chiều ngày 25, khi đi vào Arát, và khi D Artagnan vừa mới xuống ngựa ở quán Chiếc bừa vàng để uống một cốc vang, thì một kỵ sĩ cũng vừa từ sân một bưu trạm đi ra, có lẽ vừa thay ngựa, và cho con ngựa mới phi nước đại về phía Paris. Lúc hắn phi qua chiếc cổng lớn ra đường phố, gió tốc vạt áo choàng hắn khoác mặc dầu đang tháng tám, và định cuốn bay chiếc mũ, hắn đưa tay giữ lấy, lúc chiếc mũ vừa rời khỏi đầu, và kéo sụp xuống mắt. D Artagnan mắt vẫn chăm chăm nhìn con người ấy bỗng tái mặt, đánh rơi cả chiếc cốc. - Ông sao vậy, ông chủ? - Lăngsê hỏi. - Ôi, kìa, lại đây ngay, các ông, ông chủ tôi bị ốm rồi kìa! Ba người bạn chạy ngay đến và thấy D Artagnan chẳng những không sao, lại còn chạy đến chỗ ngựa mình. Họ giữ chàng lại ở ngưỡng cửa. Athos quát: - Hay nhỉ, cậu định đi quái quỷ đâu thế này? - Chính hắn! - D Artagnan mặt tái đi tức giận, lấm tấm mồ hôi trán kêu lên - Chính hắn? Cứ để tôi đuổi theo nó? - Nhưng hắn là ai? - Athos hỏi. - Hắn, cái người ấy? - Cái người nào? - Cái tên trời đánh, cái tên ác thần của tôi, mà bao giờ gặp nó tôi cũng có nguy cơ gặp tai họa, cái tên đi cùng con mụ khủng khiếp lần đầu tiên tôi gặp mụ ấy, cái tên tôi đang đuổi theo tìm nó thì đụng phải anh Athos ấy, cũng là cái tên tôi nhìn thấy đúng sáng hôm bà Bonacieux bị bắt cóc ấy. Tôi đã thấy hắn, đúng là hắn! Tôi nhận ra hắn khi gió tốc áo chàng của hắn lên. - Quỷ sứ đấy! - Athos mơ màng nói. - Lên yên, các vị, lên yên thôi. Ta đuổi theo hắn, và sẽ đuổi kịp hắn. - Bạn thân mến - Aramis nói - Nên nhớ hắn đi về phía đối diện chúng ta đang đi, hắn lại có ngựa mới thay, còn ngựa của chúng ta thì đã mệt, do đó có phi đến quỵ ngựa cũng chẳng có cơ may đuổi kịp hắn. Thôi mặc xác tên đàn ông đó, chúng ta hãy cứu người phụ nữ đã. - Ê, ông ơi! - Một gã coi ngựa vừa đuổi theo người lạ mặt vừa kêu lên - Ông ơi! Có mẩu giấy rơi ra từ mũ ông đây này? Ê, ông ơi! - Anh bạn? - D Artagnan nói - Đồng nửa pítxtôn cho mẩu giấy ấy đây? - Rất vui lòng, thưa ông, nó đây! Gã coi ngựa rất vui gặp một ngày may mắn, trở lại sân lữ điếm. D Artagnan mở mẩu giấy ra. - Thế nào? - Các bạn vừa quây lại vừa hỏi. - Mỗi một chữ! - D Artagnan nói. - Phải, Aramis nói - nhưng cái tên đó là tên một thị trấn hay tên làng đấy. - Armandchie – Porthos đọc - Armandchie, tôi không biết cái tên ấy? - Nhưng tên thị trấn hay tên làng cũng là do tay con mụ đó viết. - Athos kêu lên. D Artagnan nói: - Thôi được rồi, chúng ta cứ giữ cẩn thận mẩu giấy đó. Có lẽ tôi sẽ chẳng mất toi đồng nửa pítxtôn cuối cùng của tôi đâu. Lên ngựa, các bạn lên ngựa thôi? Và bốn người bạn phi nước đại trên con đường tới Bêtuyn. Chú thích: (1) Ở đây, con thuyền đưa Milady về Pháp, lúc đầu tác giả gọi là Sloop, tiếng Anh là thuyền một buồm. Cuối chương 58 lại gọi là Petit batiment, là con tàu nhỏ. Cuối chương 59 lại gọi là barque con thuyền, đến đây lại gọi là Navire: tàu lớn, hạm tàu(?). (2) Thống tướng Albe Luyn (chức này sau bị Richelieu xóa bỏ) sủng thần của Louis XIII, người chồng trước của nữ Công tước De Chevreuse mà trong truyện là người tình của Aramis, thường được gọi là cô em họ. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:52 | |
| Chương 61
Tu viện nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn. Những kẻ phạm trọng tội thường mang trong mình một loại tiền định cho phép chúng vượt qua mọi hiểm nguy, cho tới khi Chúa cứu thế đã quá mệt mỏi liền đánh dấu cho tiêu ma cái vận mạng vô đạo của chúng. Trường hợp Milady là như thế. Mụ đã lọt qua được tàu tuần dương của cả hai nước, và đến Bulônhơ bình yên vô sự. Lên cảng Portsmouth, Milady là một phụ nữ Anh bị những sự bạo ngược ở Pháp xua đuổi khỏi Rochelle. Lên bờ Bulônhơ, sau hai ngày vượt biển, mụ lại biến thành một người đàn bà Pháp bị người anh ở Portsmouth vì mang mối hận thù chống lại nước Pháp quấy nhiễu. Vả lại Milady có một thứ hộ chiếu có hiệu lực nhất, đó là sắc đẹp của mụ, dáng vẻ cao quý và sự hào phóng vung tiền của mụ. Vượt qua những thủ tục thông thường bằng nụ cười đáng yêu và những cử chỉ lả lơi tình tứ, viên trấn thủ cảng còn hôn tay mụ, vì vậy mụ chỉ ở lại Bulônhơ đủ thời gian để bỏ vào bưu trạm bức thư như sau: "Kính gửi Đức ông Giáo chủ De Richelieu, tại mặt trận La Rochelle. Thưa Đức ông, xin Đức ông yên tâm, Quận công De Buckingham sẽ không đến nước Pháp được đâu. Bulônhơ chiều 25. Milady de…" T.B. Theo ý muốn của Đức ông, tôi đang trở về tu viện Bêtuyn, và sẽ đợi lệnh ngài ở đấy. Quả nhiên ngay chiều hôm đó, Milady lên đường. Đêm xuống. Mụ dừng lại và ngủ trong một quán trọ, rồi năm giờ sáng hôm sau, lại ra đi, sau ba tiếng đồng hồ, đến Bêtuyn. Mụ hỏi thăm tu viện các nữ tu sĩ Cácmel, và vào ngay đó. Bà nhất ra gặp mụ. Milady đưa cho bà lệnh của Giáo chủ. Bà tu viện trưởng sai dọn cho mụ một phòng và bữa điểm tâm. Mọi cái thuộc về quá khứ đã được xóa nhòa trước mắt người đàn bà đó, và mắt chăm chăm hướng về tương lai, mụ chỉ thấy cái vận mệnh cao sang mà Giáo chủ sẽ đành cho, chỉ thấy phục vụ Giáo chủ quá may mắn khiến tên ông không dính dáng gì vào toàn bộ cái vụ việc đẫm máu đó. Những đam mê luôn luôn mới mẻ làm mụ kiệt quệ sức lực, lại đem lại cho cuộc đời mụ cái vẻ bề ngoài của những đám mây bay trên trờl phản ánh lúc thì màu xanh biếc, lúc thì màu lửa đỏ, khi thì màu đen u ám của bão tố và chỉ để lại trên mặt đất những vết tích của tàn phá và chết chóc. Sau bữa điểm tâm, bà tu viện trưởng tới thăm mụ. Ở nhà tu kín chẳng có mấy trò tiêu khiển, và bà nhất hiền lành phúc hậu đã vội đến làm quen với người khách trọ mới của mình. Milady muốn làm bà tu viện trưởng vui lòng. Điều đó thật dễ đối với một người đàn bà thực sự thuộc tầng lớp trên như thế. Mụ cố làm ra vẻ dễ thương. Mụ kiều diễm và quyến rũ bà nhất phúc hậu bằng những câu chuyện rất đa dạng và bằng những nét duyên dáng trên khắp người mình. Nữ tu viện trưởng, một tiểu thư xuất thân từ gia đình quý tộc nên càng thích nghe những chuyện triều đình hiếm khi lan đến những nơi tận cùng của vương quốc và nhất là phải khó khăn lắm mới vượt qua được những bức tường của các tu viện, nơi những dư luận thế gian chỉ đến được ngưỡng cửa là đã thở hắt ra rồi. Milady, trái lại, lại thông tỏ mọi mưu mô của giới quý tộc, mà mụ đã từng sống giữa những thủ đoạn đó năm sáu năm nay, bèn kể cho bà tu viện trưởng phúc hậu kia những thói tục thời lưu của triều đình Pháp, xen lẫn những cuồng nhiệt quá đáng của nhà Vua. Mụ liệt kê ra cái biên niên sử đầy bê bối của các vị vương hầu và các phu nhân trong triều đình, mà bà tu viện trưởng đều biết mặt biết tên, động nhẹ cả tới mối tình của Hoàng hậu và ông Bôtany, nói rất nhiều để moi người ta nói ra chút ít. Nhưng bà tu viện trưởng chỉ biết nghe và mỉm cười, mà không đáp lại. Tuy nhiên, vì Milady thấy bà có vẻ rất thích những loại chuyện ấy, liền tiếp tục. Có điều mụ dồn câu chuyện vào Giáo chủ. Nhưng mụ rất lúng túng vì không biết bà nhất thuộc phe nhà Vua hay phe Giáo chủ, nên mụ phải giữ thái độ trung dung thận trọng. Nhưng bà nhất, về phía mình lại còn thận trọng hơn, chỉ biết kính cẩn cúi đầu mỗi khi nữ du khách nói đến tên của Giáo chủ. Milady bắt đầu tin bà ta cũng rất phiền muộn phải sống trong tu viện. Mụ quyết định thử liều một chút là biết ngay phải như thế nào. Muốn biết sự kín đáo của bà tu viện trưởng phúc hậu này đến mức nào, mụ liền nói tới một điều xấu xa lúc đầu còn rất giấu giấu giếm giếm, về sau thì rõ rành rành của Giáo chủ, kể lại những mối tình của Thủ tướng Richelieu với các bà De Eghiông, Mariông đờ Lócmơ và một vài phụ nữ phong tình khác nữa. Bà nhất nghe chăm chú hơn, dần dần có vẻ thích thú hơn và mỉm cười. "Tốt, Milady nghĩ, bà ta có vẻ thích chuyện mình nói. Nếu bà ta thuộc phe Giáo chủ, ít nhất cũng không thuộc loại cuồng tín". Thế là mụ liền chuyển sang những hành vi bạo ngược của Giáo chủ với kẻ thù của mình. Bà tu viện trưởng chỉ làm dấu thánh không tán thành cũng không phản đối. Điều đó khiến Milady khẳng định bà ta thuộc phái nhà Vua hơn là phái Giáo chủ. Milady tiếp tục, mỗi lúc một thêm thắt vào. - Tôi hoàn toàn mô tê mù tịt về tất cả những chuyện ấy - Cuối cùng bà nhất cũng nói - nhưng dù có ở cách xa triều đình đến mấy, có đặt ra ngoài những lợi ích của người đời trong vị trí của chúng tôi đến mấy thì những gì mà bà kể cho chúng tôi nghe cũng là những tấm gương rất đáng buồn và một trong số những khách trọ của chúng tôi đã từng đau khổ biết mấy trước những sự trả thù và ngược đãi của Giáo chủ. - Một trong những khách trọ của bà ư - Milady nói - Ờ! Chúa ơi! Tội nghiệp người đàn bà đó. Tôi thấy thương cho cô ta. - Và bà nói có lý đấy, bởi cô ấy rất đáng thương. Nhà tù, hăm dọa, đối xử tệ hại, cô ấy đau khổ mọi điều. Nhưng suy cho cùng - bà nhất nói tiếp - Giáo chủ có lẽ có những lý do khả dĩ tin cậy để hành động như thế, và cho dù cô ta có phong thái của một thiên thần, cũng không bao giờ nên đánh giá con người theo dáng vẻ bề ngoài. "Tốt - Milady tự nhủ - ai biết đâu đấy! Có lẽ ta sắp phát hiện ra được điều gì ở đây, ta gặp may rồi". Và mụ tạo cho mình một bộ mặt hoàn toàn ngây thơ. - Ôi! - Milady nói - Tôi biết chứ. Người ta vẫn nói, mặt người dạ thú đấy thôi. Nhưng biết tin vào cái gì đây, nếu không tin vào cái công trình đẹp nhất của Thượng đế! Về phần tôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ bị nhầm. Nhưng tôi sẽ luôn luôn tin vào người nào mà bộ mặt gợi cảm tình cho tôi. Bà tu viện trưởng nói: - Vậy thì bà sẽ tin là thiếu phụ ấy vô tội mất thôi. - Ngài Giáo chủ không chỉ truy cứu các tội ác - Mụ nói - Có một số những đức hạnh ngài còn truy cứu nghiêm khắc hơn cả tội lỗi nữa đấy. - Cho phép tôi, thưa bà được biểu lộ sự kinh ngạc của tôi đấy - Bà nhất nói. - Và về điều gì? - Milady vờ ngây thơ hỏi. - Ồ, về khẩu khí của bà ấy. Milady mỉm cười hỏi. - Bà thấy khẩu khí của tôi đáng ngạc nhiên ở chỗ nào? - Bà là bạn của Giáo chủ, vì ông ấy phái bà đến đây, tuy nhiên… - Tuy nhiên tôi lại nói xấu về ông ấy - Milady nói tiếp suy nghĩ của bà nhất. - Ít nhất bà cũng chẳng nói tốt gì cho ngài. - Đó là vì tôi không phải là bạn - Mụ vừa nói vừa thở dài - mà là nạn nhân của ông ấy. - Tuy nhiên bức thư mà ngài trao cho bà gửi cho tôi thì sao đây? - Là lệnh giữ tôi trong một loại nhà tù mà ông ấy sẽ cho tay chân đến lôi tôi ra. - Nhưng tại sao bà không trốn? - Trốn đi đâu được? Bà tưởng có một địa điểm nào trên trái đất này mà Giáo chủ không với tới được ư, nếu như ngài chịu khó ra tay? Nếu tôi là một người đàn ông, bần cùng lắm, còn có thê làm như thế, nhưng một người đàn bà như tôi, bà bảo phải làm gì? Cái cô khách trọ trẻ mà bà cho ở đây có ý định chạy trốn không? - Không, đúng vậy, với cô ta, lại là chuyện khác, tôi tin rằng cô ấy ở lại Pháp là vì một mối tình nào đó. Milady thở dài: - Nếu cô ta yêu, cô ta đâu phải hoàn toàn bất hạnh. - Như thế có nghĩa - bà tu viện trưởng vừa nói vừa nhìn Milady thêm thiện cảm - tôi lại gặp thêm một phụ nữ đáng thương bị ngược đãi ư? - Than ôi, đúng như thế đấy bà ạ - Milady nói. Bà tu viện trưởng nhìn Milady một lúc với vẻ lo lắng như thể có một ý nghĩ mới vừa nẩy ra trong óc bà. - Bà không phải là kẻ thù của đức tin thần thánh của chúng tôi đấy chứ? - Bà nhất lúng túng hỏi. - Tôi ư? - Milady kêu lên - Tôi mà Tin lành ư? Ồ, không đâu, xin chúa chứng giám và thấu hiểu cho tôi, trái lại, tôi còn là một tín đồ Cơ đốc giáo đầy nhiệt huyết. - Thế thì - bà nhất mỉm cười nói - bà cứ yên tâm. Ngôi nhà mà bà đang ở đây sẽ không phải là một nhà tù quá khắc nghiệt, và chúng tôi sẽ làm tất những gì cần làm để bà yêu mến cảnh giam cầm này. Thêm nữa, bà sẽ gặp ở nơi đây thiếu phụ bị ngược đãi chắc hẳn do một âm mưu nào đó tiếp theo ở triều đình, cô ấy thật đáng yêu và duyên dáng. - Bà gọi tên cô ta thế nào? - Cô ấy được một vị nào đó quyền chức rất cao gửi gắm tới dưới cái tên là Ketty. Tôi cũng chẳng muốn biết tên khác của cô ấy là gì. - Ketty? - Milady reo lên - Sao! Bà chắc như thế chứ? Rằng cô ấy được gọi tên như thế có phải không? - Phải đấy. Ra bà cũng biết cô ấy? Milady mỉm cười với chính mình và với ý nghĩ vừa chợt đến với mình là thiếu phụ đó có thể là thị tì cũ của mình. Kỷ niệm về cô gái này nối liền với kỷ niệm giận dữ, và một ý muốn trả thù đã làm Milady biến sắc, nhưng người đàn bà có tới trăm bộ mặt này trong khoảnh khắc đã lấy lại ngay vẻ bình thản và nhân ái. - Khi nào tôi có thể gặp được người thiếu phụ, con người mà tôi đã cảm thấy ngay có rất nhiều cảm tình ấy? - Milady hỏi. - Tối nay thôi - Bà tu viện trưởng nói - nội nhật hôm nay thôi. Nhưng bà vừa dong duổi bốn ngày trời, chính bà đã nói với tôi như thế, sáng nay bà lại dậy từ năm giờ bà cần phải nghỉ ngơi đã. Bà đi nằm rồi ngủ đi, đến giờ ăn trưa, chúng tôi sẽ đánh thức bà dậy. Cho dù Milady rất có thể bỏ qua không cần ngủ nghê gì do cuộc phiêu lưu mới đã gây nên những kích thích cho con tim luôn thèm khát những âm mưu, mụ vẫn chấp nhận nhã ý của bà nhất. Từ mười hai đến mười lăm ngày nay mụ đã trải qua biết bao nhiêu những cảm xúc khác nhau đến nỗi nếu tấm thân gang thép của mụ còn có thể chịu đựng được sự mệt mỏi, thì tâm hồn mụ cũng cần phải nghỉ ngơi. Mụ cáo từ bà nhất đi nằm và được êm ru trong những ý nghĩ trả thù dĩ nhiên là hướng tới cái tên Ketty. Mụ nhớ lại cái lời hứa hầu như vô giới hạn của giáo chủ nếu mụ thành công trong việc mưu sát. Mụ đã thành công, vậy D Artagnan phải được để cho mụ xử. Điều duy nhất làm mụ sợ hãi, đó là kỷ niệm về chồng mụ. Đó là Bá tước de la Ferơ, mà mụ cứ tưởng đã chết hoặc ít nhất cũng đã đi biệt xứ, và bây giờ mụ lại gặp lại trong Athos, người bạn thân thiết nhất của D Artagnan. Cho nên, nếu đã là bạn của D Artagnan, thì hắn phải sẵn sàng tham dự vào những thủ đoạn của gã mà nhờ thế Hoàng hậu đã phá vỡ được những mưu toan của Giáo chủ, nếu hắn đã là bạn của D Artagnan thì hắn phải là kẻ thù của Giáo chủ và chắc chắn mụ sẽ chùm luôn cả hắn vào việc trả thù mà mụ vẫn hy vọng sẽ bóp chết chàng ngự lâm trẻ. Tất cả những hy vọng đó đều là những ý nghĩ êm dịu đối với Milady, được ru bằng những ý nghĩ đó chẳng mấy chốc mụ đã ngủ thiếp đi. Mụ được đánh thức bằng một giọng nói dịu dàng ngay phía cuối gường. Mụ mở mắt và thấy bà tu viện trưởng đi cùng một thiếu phụ tóc hoe vàng, da rất mịn, đang chăm chú nhìn mụ bằng con mắt tò mò đầy thiện ý. Khuôn mặt thiếu phụ hoàn toàn xa lạ đối với mụ. Cả hai đều vừa chào hỏi xã giao nhau - vừa thận trọng dè dặt dò xét nhau. Cả hai đều rất đẹp, nhưng hai sắc đẹp hoàn toàn khác biệt nhau. Tuy nhiên Milady mỉm cười nhận ra mình trội hơn nhiều về vẻ quyền quý và những kiểu cách quý tộc. Mà cũng đúng, áo quần của người mới xuất gia mà thiếu phụ đang mặc không có lợi lắm trong cuộc thi sắc này. Bà tu viện trưởng giới thiệu hai người với nhau. Rồi khi mọi thủ tục đã xong, vì phải làm những bổn phận của mình ở giáo đường, bà để mặc hai thiếu phụ lại với nhau. Người phụ nữ mới xuất gia thấy Milady vẫn nằm, định đi theo bà nhất, nhưng Milady giữ lại. - Sao vậy thưa bà, - mụ nói với nàng - tôi vừa mới được thấy bà, mà bà đã định tước mất của tôi niềm hân hạnh được tiếp kiến bà ư. Xin thú thực với bà, tôi vẫn mong có được điều đó trong thời gian phải lưu lại ở đây. - Không, thưa bà - người mới xuất gia trả lời - có điều tôi e đã đến không đúng lúc: bà còn đang ngủ và còn mệt. - Thế à? - Milady nói - Người đang ngủ có thể đòi hỏi điều gì nào? Đó là được tỉnh giấc khoan khoái. Bà đã làm cho tôi được tỉnh giấc như thế đấy. Bà hãy cho tôi được thoải mái hưởng cái thú khoan khoái đó. - Và cầm lấy tay nàng, kéo đến ngồi trên chiếc ghế bành cạnh giường ngủ của mình. Thiếu phụ ngồi xuống. - Lạy Chúa! - Nàng nói - sao mà tôi khốn khổ đến thế! Thế là đã sáu tháng tôi ở đây, không một chút bóng dáng thú vui, bà đến đây, sự hiện diện của bà làm tôi sắp có được một người bạn yêu kiều, ấy thế mà, rất có thể, chưa biết lúc nào, tôi sắp rời khỏi tu viện. - Sao thế? - Milady nói - bà sắp ra khỏi đây ư? - Ít ra tôi cũng mong như thế - Nàng vừa nói vừa biểu lộ một niềm vui chẳng hề tìm cách ngụy trang. - Tôi tin là mình đã được biết bà đã từng đau khổ vì Giáo chủ - Milady tiếp tục - cái đó cũng lại thêm một lý do để chúng ta có sự thông cảm với nhau. - Điều mà mẹ nhất của chúng ta nói với tôi vậy cũng là sự thật nghĩa là bà cũng là nạn nhân của lão thầy tu độc ác đó sao? - Suỵt! - Milady nói - ngay ở đây, chúng ta cũng đừng nói ông ta như thế. Mọi nỗi bất hạnh của tôi chính cũng xuất phát từ chỗ đi nói gần như bà vừa nói với tôi ấy trước một người đàn bà tôi vẫn coi là bạn, ai ngờ đã phản bội tôi. Và chắc bà cũng vậy, bà cũng là nạn nhân của một sự phản bội? - Không - thiếu phụ đáp - mà là sự tận tâm của tôi, tận tâm với một người đàn bà mà tôi yêu, với bà, tôi đã cống hiến cả đời mình và với bà, tôi sẽ còn cống hiến thêm nữa. - Và người đó đã bỏ rơi bà, thế chứ gì? - Tôi đã từng khá bất công để tin như thế, nhưng từ hai ba hôm nay tôi đã thu được bằng chứng ngược lại và tôi đã cảm ơn Chúa về điều đó. - Tôi đáng bị trả giá về việc đi tin rằng bà đã quên tôi. Nhưng bà, thưa bà - thiếu phụ tiếp tục - tôi thấy hình như bà được tự do và nếu như bà định trốn, có điều gì ngăn cấm bà đâu. - Bà muốn tôi trốn đi đâu, không bạn bè, không tiền bạc, đến một miền của nước Pháp mà tôi không hay biết và chưa bao giờ đặt chân tới ư? - Ồ! - Thiếu phụ kêu lên - về chuyện bạn bè thì ở đâu bà chẳng có khi bà tỏ ra hiền hậu, và trông bà lại đẹp đến thế kia! Milady vừa nói vừa nặn ra một nụ cười dịu dàng hơn cho có vẻ thiên thần: - Điều đó cũng không tránh cho tôi khỏi bị đơn độc và bị ngược đãi. - Bà hãy nghe tôi - thiếu phụ nói - cần phải hy vọng vào trời. Làm điều tốt rồi thế nào cũng có lúc Chúa thấu hiểu, mà có thể đây cũng là dịp may của bà chăng, tuy tôi hèn mọn và không thần thế gì, nhưng bà đã gặp tôi, nếu tôi ra khỏi đây, lúc đó, tôi sẽ có mấy người bạn khá mạnh sau khi đã tiến hành vận động cho tôi, cũng có thể vận động cho bà. - Ồ, khi tôi nói rằng tôi đơn độc - Milady nói về bản thân mình, hy vọng người nữ tu mới xuất gia cũng phải bật ra về cô ta - không phải tôi không có một số chỗ quen biết rất cao, nhưng ngay chính họ cũng run sợ trước Giáo chủ. Kể cả Hoàng hậu nữa cũng không dám chống lại vị thủ tướng khủng khiếp ấy cơ mà. - Tôi có bằng chứng Hoàng hậu mặc dầu có tấm lòng nhân hậu tuyệt vời đã mấy lần phải để mặc cho Giáo chủ trút giận dữ lên những người đã phục vụ mình. - Thưa bà, xin hãy tin tôi, Hoàng hậu có thể làm ra vẻ bỏ rơi những con người đó, nhưng ta không nên tin ở bề ngoài, họ càng bị ngược đãi bà càng nghĩ đến họ, và thường thường đúng lúc họ trông chờ ở bà ít nhất, họ lại có được bằng chứng về việc bà rất nhớ đến họ. - Ôi! - Milady nói - Tôi tin chứ. Hoàng hậu thật quá tất. - Ồ? Thế ra bà cũng quen biết Hoàng hậu ư? - Thiếu phụ cuồng nhiệt reo lên - Hoàng hậu kiều diễm và cao quý, bà cũng nói về Hoàng hậu như thế ư? - Nghĩa là - Milady bị đẩy vào thế phòng thủ nói - về cá nhân tôi, tôi không có được cái vinh dự quen biết Hoàng hậu, nhưng tôi quen biết khá nhiều bạn bè thân thiết của bà. Tôi quen ông De Puytănggiơ này, tôi quen ở anh ông Đuyja. Tôi quen ông De Treville. - Ông De Treville? - Thiếu phụ reo lên - Bà quen cả ông De Treville? - Vâng, hoàn toàn, nhiều nữa ấy chứ. - Đại úy ngự lâm quân của nhà Vua? - Đúng, đại úy ngự lâm quân của nhà vua. - Ồ, vậy thì rồi bà sẽ thấy - thiếu phụ vẫn reo lên - Vừa mới quen biết nhau xong mà hầu như đã là bạn của nhau rồi. Nếu bà quen biết ông De Treville, chắc bà đã đến nhà ông ấy? - Luôn luôn? - Milady nói vậy, vì đã trót rồi, lại thấy nói dối cũng có kết quả nên định nói dối đến cùng. - Tại chỗ ông ấy, chắc bà phải gặp một vài lính ngự lâm của ông ấy? - Gặp tất cả những người mà ông ấy tiếp thường xuyên? - Milady trả lời, vì thấy câu chuyện xoay ra có lợi. - Bà thử kể tên một vài người bà quen biết xem sao nào, và bà sẽ thấy họ cũng thuộc trong số người bạn của tôi. - Nhưng - Milady lúng túng nói - Tôi quen ông De Xuvinhi, ông De Cuốctivrông, ông De Fréjusxắc. Thiếu phụ để cho mụ nói, rồi thấy mụ dừng lại nàng hỏi: - Thế bà không quen một nhà quý tộc tên là Athos ư? Milady mặt xám ngoét đi như màu thảm trải giường mụ nằm, và dù đã rất tự chủ, không tránh khỏi vừa thốt ra một tiếng kêu, vừa nắm lấy tay người đang trò chuyện với mình, vừa nhìn như muốn nuốt sống người ta. - Sao? Bà sao vậy? Ôi, lạy Chúa - Người phụ nữ đáng thương hỏi - tôi đã nói điều gì xúc phạm đến bà ư? - Không, nhưng cái tên đó đã tác động mạnh đến tôi, bởi vì tôi, tôi cũng quen biết nhà quý tộc đó, nhưng tôi lấy làm lạ khi thấy có người lại quen biết ông ta nhiều đến thế. - Ồ, đúng! Nhiều! Rất nhiều! Không những ông ấy mà còn cả các bạn ông ấy nữa: các ông Porthos và Aramis? - Thật ra, tôi cũng quen cả mấy ông này! - Milady nói mà cảm thấy lạnh thấu tim. - Thế thì… Nếu bà đã quen biết họ, hẳn bà phải biết họ là những người bạn tất và trung thực, và sao bà không ngỏ ý với họ, nếu bà cần chỗ dựa? - Nghĩa là - Milady ấp úng - tôi không thực sự kết giao với bất kỳ ai trong số họ. Tôi biết họ vì được một người bạn họ, ông D Artagnan, đã nói rất nhiều về họ thôi. - Vậy bà quen ông D Artagnan? - Đến lượt thiếu phụ nói như thét lên. Nắm lấy tay Milady với đôi mắt ngốn ngấu. Rồi nhận thấy biểu hiện lạ lùng trong con mắt của Milady: - Xin lỗi bà, bà quen ông ấy với danh nghĩa gì? - Ồ - Milady bối rối - Ồ, danh nghĩa bạn bè thôi. - Bà lừa tôi, thưa bà -người nữ tu mới nói - bà từng là người tình của ông ấy. - Chính bà mới từng là người tình của ông ấy - Đến lượt Milady hét lên. - Tôi ư? - Thiếu phụ nói. - Phải, bà, bây giờ thì tôi biết bà rồi: bà là bà Bonacieux. Thiếu phụ lùi lại hết sức kinh ngạc và hoảng sợ. - Ồ! Đừng chối nữa! Trả lời đi! - Milady tiếp - Được! Thì đúng đấy? - Thiếu phụ nói - Chúng ta là tình địch của nhau? Mắt Milady tóe lên ngọn lửa hết sức hoang dại mà trong mọi trường hợp khác bà Bonacieux đã vội chạy trốn vì hoảng sợ, nhưng mà nàng cũng đang hoàn toàn lên cơn ghen. - Nào, bà nói đi - Bà Bonacieux nói với một nghị lực mà người ta không thể ngờ tới - bà từng là hay đang là người tình của ông ấy? - Ồ, không! - Milady hét lên bằng một giọng không thể ngờ được về sự chân thực - Không bao giờ! Không bao giờ! - Tôi tin bà, bà Bonacieux! Nhưng tại sao bà cũng thét lên như thế? - Sao, bà không hiểu ư? - Milady lúc này đã bình tĩnh trở lại và lại ứng phó nhanh như trước, mụ hỏi vậy. - Bà muốn tôi phải hiểu thế nào đây? Tôi chẳng biết gì cả. - Thế là bà không hiểu ông D Artagnan là bạn của tôi, và ông ấy coi tôi là bạn tâm tình ư? - Thật thế sao? - Bà không hiểu là tôi biết hết ư. Từ việc bắt cóc bà tại ngôi nhà nhỏ ở Saint-Germain, sự thất vọng của ông ấy, của các bạn ông ấy, đến những việc tìm kiếm vô ích của họ từ khi ấy? Và làm sao tôi lại không ngạc nhiên được, khi mà tôi đinh ninh mình đang ở trước mặt bà, người mà chúng tôi thường cùng nhau nói đến, người mà ông ấy làm cho tôi phải yêu trước cả khi tôi được gặp bà? Ôi! Constance thân mến, thế là tôi đã tìm được bà, cuối cùng thì tôi cũng đã gặp bà! Và Milady dang hai cánh tay ra cho bà Bonacieux đã bị thuyết phục bởi những gì mụ vừa nói, và chỉ còn thấy người đàn bà mà mới chỉ một phút trước đây nàng còn tưởng là tình địch ấy, một người bạn thật thà và hết lòng với mình. - Ồi, thứ lỗi cho em? Thứ lỗi cho em? - Nàng vừa kêu lên vừa ngả người vào vai Milady - Em yêu chị biết mấy! Hai người ôm lấy nhau trong giây lát. Chắc hẳn, nếu sức lực của Milady có thể lên cao ngang với nỗi căm hận của mụ thì ôm nhau xong bà Bonacieux đã chết ngạt rồi. Nhưng vì không bóp chết ngạt được, mụ cười với nàng. - Ôi người đẹp thân mến? Cô bé hiền hậu thân mến! - Milady nói - Được gặp cô tôi sung sướng biết mấy! Nào để tôi nhìn cô nào! - Và vừa nói ra những câu ấy, mụ vừa hau háu nhìn nàng - Phải, đúng là cô rồi! Chà! Theo như lời ông ấy đã nói với tôi, lúc này tôi nhận ra cô rồi, tôi hoàn toàn nhận ra cô. Người phụ nữ tội nghiệp không thể ngờ tới những gì đang diễn ra vô cùng ghê rợn và hung dữ đằng sau cái chiến lũy là vầng trán trong trắng là đôi mắt sáng long lanh đến thế làm cho nàng chỉ thấy thích thú và cảm tình. - Thế thì chị cũng biết em đã từng đau khổ thể nào - Bà Bonacieux nói - một khi chàng đã nói với chị những gì chàng đau khổ, thì đau khổ vì chàng, chính lại là hạnh phúc. Milady lắp lại một cách máy móc vì đang nghĩ đến điều khác: - Phải, chính lại là hạnh phúc. - Và rồi, - Bà Bonacieux tiếp tục - nỗi thống khổ của tôi cũng đến hồi kết thúc rồi, ngày mai, có lẽ ngay tối nay cũng nên, tôi sẽ gặp lại chàng và thế là quá khứ sẽ không tồn tại nữa. - Tối nay ư? Ngày mai ư? - Nghe những lời nói ấy Milady như hết mơ màng, thét lên - cô muốn nói sao? Cô đang đợi tin tức của ông ấy à? - Tôi đợi chính bản thân chàng. - Chính chàng! D Artagnan, ở đây ư? - Chính chàng. - Nhưng, không thể thế được? Ông ấy đang cùng với Giáo chủ vây thành La Rochelle kia mà? Ông ấy sẽ chỉ trở về sau khi chiếm được thành? - Chị cứ tưởng thế đấy thôi chứ làm gì có cái gì lại không có thể với chàng D Artagnan của em, con người quý tộc trung thực và cao quý ấy. - Ồ, tôi không thể tin nổi cô đâu? - Vậy thì, chị đọc đi! Trong lúc quá vui mừng và kiêu hãnh, người phụ nữ trẻ khốn khổ chìa ngay một bức thư cho Milady. "Nét chữ của bà De Chevreuse rồi! - Milady tự nhủ - chà, mình vẫn tin chắc chúng thông đồng với nhau về chuyện này mà?". Và mụ đọc ngốn ngấu mấy dòng chữ đó: "Em yêu quý, em hãy chuẩn bị sẵn sàng, người bạn của chúng ta sắp tới gặp em rồi, và chàng đến gặp em là chỉ để kéo em ra khỏi cảnh giam cầm mà vì sự an toàn của em buộc phải giấu em ở đấy Vậy em hãy chuẩn bị lên đường và đừng bao giờ thất vọng về bọn ta. Chàng Gátxông đáng yêu của chúng ta đến để tỏ ra là vẫn luôn can trường và trung thành như mọi khi, em hãy nói với chàng là người ta rất biết ơn chàng về thông báo chàng đã đưa ra". - Phải, phải, - Milady nói - Phải, bức thư rất rõ ràng. Cô có biết thông báo đó là về cái gì không? - Không, em chỉ ngờ rằng chàng đã báo cho Hoàng hậu về một âm mưu mới nào đấy của Giáo chủ. - Phải, chắc là như thế! - Milady vừa nói vừa trả lại bức thư cho bà Bonacieux rồi gục đầu xuống trầm ngâm. Đúng lúc ấy có tiếng vó ngựa. - Ồ! Bà Bonacieux vừa reo lên vừa lao ra cửa sổ - Chàng đã đến rồi ư? Milady vẫn đang ở trong giường, đờ người ra vì kinh ngạc. Bao nhiêu chuyện bất ngờ bỗng đến với mụ, và lần này thì mụ thật sự hoang mang. Mụ lẩm bẩm: - Hắn! Hắn ư? Thật hắn ư? Nhưng mụ vẫn ở lì trên giường, mắt chăm chăm. - Ôi! Không phải - Bà Bonacieux nói - Đó là một người đàn ông, em không quen biết, có vẻ như đang đến đây. Đúng, ông ta cho ngựa chạy chậm lại, dừng ở trước cửa và giật chuông. Milady nhảy ngay ra khỏi giường và hỏi: - Cô có thật tin chắc không phải chàng không? - Ồ, vâng, chắc quá đi chứ? - Cô nhìn nhầm chăng? - Ồ, em chỉ thấy lông cài mũ và vạt áo chàng là em đã nhận được ngay ra chàng mà. Milady vẫn cứ mặc quần áo vào. - Không sao! Cô bảo người đàn ông đó đến đây? - Phải, ông ta đã vào rồi. - Thế thì hoặc để gặp cô hoặc để gặp tôi. - Ôi, Chúa ơi! Sao trông chị có vẻ bồn chồn thế - Đúng, tôi xin thú thực, tôi không có được lòng tin như cô, tôi sợ Giáo chủ đủ thứ. - Suỵt! - Bà Bonacieux - họ tới đấy! Quả nhiên, cửa mở và bà nhất bước vào hỏi Milady: - Có phải bà từ Bulônhơ đến không? - Vâng, chính tôi - Mụ trả lời, cố giữ bình tĩnh -Ai hỏi tôi ư? - Một người không muốn nói tên ra, nhưng là người do Giáo chủ phái đến. - Và muốn nói chuyện với tôi? - Muốn nói chuyện với một bà từ Bulônhơ đến. - Thế thì tôi xin bà, bà để ông ấy vào đi. - Ôi lạy Chúa! Lạy Chúa! - Bà Bonacieux nói - Hay là lại có một tin dữ nào ư? - Tôi sợ là như thế. - Vậy em để chị gặp người lạ mặt đó, nhưng ngay khi người ấy đi khỏi, nếu chị cho phép, em sẽ trở lại. - Sao lại không chứ! Tôi mong cô đến đấy. Milady còn lại một mình, mắt chăm chăm nhìn ra cửa, một lát sau, có tiếng đinh thúc ngựa vang lên trên cầu thang rồi tiếng bước chân lại gần, cửa mở, và một người đàn ông hiện ra. Milady reo lên mừng rỡ, người đàn ông đó chính là Bá tước De Rochefort, linh hồn tội lỗi của Giáo chủ. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:53 | |
| Chương 62
Hai giống yêu quái - Kìa! Cả Milady lẫn Rochefort cùng reo lên. - Thì ra ông! - Vâng, chính tôi. - Ông từ đâu đến? - Milady hỏi. - Từ La Rochelle, còn bà? - Từ nước Anh. - Buckingham sao rồi? - Chết hoặc bị thương nặng(1) vì tôi đã đi trước nên không nắm được điều gì rõ ràng về hắn, một tên cuồng tín vừa ám sát hắn. - Chà! - Rochefort nở một nụ cười - Một sự run rủi quá may mắn rồi! Và Đức ông chắc sẽ hài lòng lắm! Bà đã báo cho ngài chưa? - Từ Bulônhơ tôi đã viết cho ngài rồi. Nhưng làm thế nào ông lại đến được đây? - Đức ông lo lắng đã phái tôi đi tìm bà. - Tôi mới đến từ hôm qua. - Và bà làm gì từ hôm qua đến giờ? - Tôi chẳng để phí thời gian đâu. - Ồ cái đó thì tôi không nghi ngờ gì rồi? - Ông có biết tôi gặp ai ở đây không? - Không. - Ông đoán xem. - Làm sao tôi đoán nổi. - Cái cô ả mà Hoàng hậu đã kéo ra khỏi nhà tù đó. - Tình nhân của thằng ranh D Artagnan? - Đúng vậy, vợ lão Bonacieux mà Giáo chủ không biết trốn ở đâu ấy! - Ồ! – Rochefort nói - Thế thì lại thêm một sự run rủi có thể sánh đôi với sự run rủi kia rồi. Giáo chủ đúng thật là may mắn. - Ông có biết tôi ngạc nhiên đến thế nào khi tôi thấy mình đối mặt với con mụ ấy không? - Mụ biết bà à? - Không. - Vậy mụ ta coi bà là một người xa lạ? Milady mỉm cười? - Tôi là bạn chí thiết của mụ? - Xin lấy danh dự ra thề đấy - Rochefort nói - chỉ có nữ Bá tước thân mến của tôi mới làm nổi những kỳ tích đó. - Và phen này thì tôi tính sổ được rồi, ông hiệp sĩ ạ - Milady tiếp tục - bởi vì ông có biết xảy ra chuyện gì không? - Không. - Ngày mai hoặc ngày kia, người ta sẽ đem lệnh của Hoàng hậu đến đây tìm mụ. - Thật à! Và ai đến? - D Artagnan và lũ bạn hắn. - Đúng là chúng gây ra bao nhiêu chuyện, phải tống chúng vào ngục Bastille thôi. - Tại sao còn chưa làm cái việc ấy? - Bà muốn sao! Giáo chủ có một điểm yếu nào đó đối với những con người này mà tôi không hiểu nổi. - Thật à? - Thật đấy. - Thế thì ông phải nói với Giáo chủ điều này, ông Rochefort ạ. Ông hãy nói với Giáo chủ câu chuyện giữa tôi và Giáo chủ ở quán Chuồng chim câu Đỏ đã bị bốn kẻ ấy nghe trộm, sau khi ngài đi, một kẻ đã lên chỗ tôi và dùng bạo lực giật mất của tôi tờ thông hành đặc biệt ngài cho tôi. Nói với ngài chúng đã báo trước cho De Winter về việc tôi sang Anh, chúng đã làm thất bại nhiệm vụ của tôi cũng như chúng đã từng làm thất bại vụ nút kim cương. Nói với ngài trong bốn tên, chỉ hai tên là đáng sợ là D Artagnan và Athos. Tên thứ ba Aramis là tình nhân của bà De Chevreuse nên để cho tên ấy sống, biết được bí mật của nó, nó có thể có ích. Còn tên thứ tư, Porthos, một thằng ngu, một tên hợm hĩnh và ngớ ngẩn, chẳng thèm để ý làm gì. - Nhưng cả bốn tên ấy lúc này đang ở chỗ vây hãm La Rochelle kia mà. - Tôi cũng đã tin thế như ông. Nhưng bức thư vợ lão Bonacieux nhận được của bà thống tướng, và ả đã khờ khạo đưa cho tôi xem, trái lại đã khiến tôi biết bốn tên đó đang đến đây để mang ả đi. - Trời? Làm thế nào đây? - Giáo chủ nói với ông thế nào về tôi? - Rằng tôi phải mang những báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng của bà trở về bằng ngựa trạm, và khi ngài biết được bà đã làm được những gì, ngài sẽ thông báo bà phải làm gì. - Vậy tôi phải lưu lại đây à? - Đây hoặc quanh đây. - Ông không thể mang tôi đi cùng? - Không, lệnh là lệnh. Ở vùng quanh đấy, việc đó phương hại đến Đức ông. - Vậy tôi phải đợi ở đây hay vùng quanh đây? - Chỉ cần bà nói trước cho tôi biết bà đợi tin của Giáo chủ ở đâu, để tôi biết chỗ tìm bà. - Ông này, có lẽ tôi không thể ở lại đây. - Tại sao? - Ông quên bọn kẻ thù của tôi, sớm muộn gì cũng đến đây ư? - Đúng vậy, nhưng thế thì con mụ hạ tiện kia sẽ thoát khỏi tay Giáo chủ ư? - Vớ vẩn? - Milady nở một nụ cười chỉ riêng mình hiểu - Ông quên tôi là bạn chí thiết của ả ư? - Ồ, đúng rồi! Vậy tôi có thể nói với Giáo chủ, đối với mụ đàn bà này… - Ngài cứ yên tâm. - Thế thôi ư? - Ngài sẽ biết tôi muốn nói gì. - Chắc là ngài sẽ đoán ra. Còn bây giờ tôi phải làm gì đây? - Phải đi ngay đi. Tôi thấy những tin tức ông mang về bõ công đi sao cho thật nhanh đấy. - Thế thì đến Liliê xe ngựa tôi gãy bánh mất. - Càng tuyệt! - Càng tuyệt là thế nào? - Đúng, vì tôi cần cỗ xe của ông mà. - Thế thì tôi đi bằng gì bây giờ? - Bằng ngựa trạm. - Bà nói dễ nghe nhỉ. Một trăm tảm mươi dặm đấy. - Thế thì đã sao? - Được tôi sẽ đi bằng ngựa trạm. Rồi sau đó? Sau đó, khi qua Liliê, ông sẽ lệnh cho gia nhân đánh xe về đây cho tôi. - Được! Chắc ông có sẵn một tờ lệnh nào đó của Giáo chủ trong người chứ? - Tôi có toàn quyền. - Ông hãy ra lệnh cho bà tu viện trưởng, bảo bà ta rằng hôm nay hoặc ngày mai ông sẽ cho người đến tìm tôi, và tôi sẽ phải đi theo người đó. - Được! - Ông đừng quên tỏ ra cứng rắn với tôi khi nói với bà tu viện trưởng. Thì tôi là nạn nhân của Giáo chủ mà. Tôi rất cần gây được lòng tin với cái bà Bonacieux bé nhỏ tội nghiệp kia. - Đúng vậy. Bây giờ bà có thể làm cho tôi một báo cáo về tất cả những gì đã xảy đến không? - Tôi đã chả kể hết cho ông nghe các biến cố rồi là gì. Ông có trí nhớ tốt, ông cứ nhắc lại mọi điều tôi đã nói với ông là được rồi. Giấy tờ nguy lắm. - Bà nói đúng, có điều tôi phải biết chính xác tìm bà ở đâu, để tôi khỏi phải chạy đi tìm khắp xung quanh vô ích. - Đúng, ông chờ tí nhé. - Bà cần bản đồ không? - Ồ tôi thuộc vùng này như trong lòng bàn tay ấy chứ. - Bà thuộc ư? Vậy bà ở đây khi nào? - Tôi lớn lên ở đây mà. - Thật ư? - Ông thấy đấy, lớn lên ở đâu mà chẳng có đôi chút ích lợi. - Vậy bà đợi tôi ở đâu? - Để tôi nghĩ một chút. À, ở Acmăngchie ông ạ. - Acmăngchie là chỗ nào nhỉ? - Một thị trấn nhỏ trên sông Lítx, tôi chỉ việc qua sông là đã sang nước ngoài rồi. - Và trong trường hợp ấy, làm thế nào để tôi biết được bà ở đâu? - Ông không cần người hầu của ông đấy chứ? - Không. - Có tin được không? - Đã được thử thách nhiều. - Hãy trao nó cho tôi. Không ai quen biết nó. Tôi để nó lại chỗ tôi đã rời đi, nó sẽ dẫn ông tới nơi tôi ở. - Và bà nói đợi tôi Acmăngchie. - Ở Acmăngchie. - Bà hãy viết cái tên đó lên mẩu giấy, sợ tôi quên mất, bởi cũng chẳng có hại gì, một cái tên thị trấn thôi, có phải không? - Ồ biết đâu đấy? Thôi cóc cần - Milady vừa nói, vừa ghi tên đó lên nửa tờ giấy - Thế này là tôi hại tôi đây. - Tốt - Rochefort vừa nói vừa cầm lấy mẩu giấy, gập lại và nhét vào mũ - vả lại, bà yên tâm, tôi sẽ làm như lũ trẻ con và trong trường hợp đánh mất mẩu giấy, tôi sẽ nhắc đi nhắc lại suốt dọc đường. Giờ thì xong tất cả rồi chứ. - Tôi nghĩ vậy. - Tôi kiểm tra lại một chút nhé: Buckingham bị chết hoặc bị thương nặng. Cuộc trao đổi giữa bà với Giáo chủ đã bị bốn tên ngự lâm quân nghe trộm. De Winter đã được báo trước việc bà đến Portsmouth. Tống Athos D Artagnan vào Bastille. Aramis là tình nhân của bà De Chevreuse. Porthos là một tên hợm hĩnh. Đã tìm thấy vợ lão Bonacieux. Gửi lại ngay cho bà cỗ xe càng sớm càng tốt. Cho người hầu của tôi đến hầu bà. Làm như bà là nạn nhân của Giáo chủ, để bà tu viện trưởng khỏi nghi. Acmăngchie trên bờ sông Litx. Đủ chưa nào? - Ông hiệp sĩ thân mến của tôi ơi, đúng là ông có một trí nhớ thần kỳ. Nhân tiện, thêm một điều… - Điều gì? - Tôi thấy có những mảnh rừng nhỏ rất đẹp nối liền với khu vườn cây của tu viện, hãy bảo họ cho tôi được phép đi dạo trong những mảnh rừng ấy, biết đâu tôi lại chẳng cần ra bằng lối cổng sau. - Bà chu đáo lắm. - Và ông quên một điều… - Điều gì? - Hỏi tôi xem tôi có cần tiền không? - Đúng vậy, bà cần bao nhiêu? - Tất cả số vàng ông có. - Tôi có khoảng xấp xỉ năm trăm Pítxtôn. - Tôi cũng có ngần ấy. Với một nghìn Pítxtôn, có thể đối mặt với mọi thứ. Nào ông dốc túi ra đi. - Đây! - Tốt, và ông đi chứ? - Khoảng một giờ nữa. Đủ thời gian để có chút gì vào bụng. - Trong thời gian đó tôi sẽ đi tìm một con ngựa trạm. Tuyệt lắm! Tạm biệt ông hiệp sĩ! - Tạm biệt nữ Bá tước? - Cho tôi gửi lời thăm hỏi Giáo chủ. - Cho tôi gửi lời thăm quỷ Satan. Milady và Rochefort mỉm cười với nhau và chia tay. Một giờ sau, Rochefort phi ngựa nước đại ra đi. Năm giờ chiều hắn đi qua Arratx. Ở đó hắn đã bị D Artagnan nhận mặt, vì vậy đã khơi gợi những mối lo ngại cho bốn chàng ngự lâm, và đã đem lại một động lực mới cho cuộc hành trình của họ. Chú thích: (1) Chỗ này tác giả lại quên vì khi Milady rời khỏì Portsmouth đã thấy cờ tang trên tàu Đô đốc. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:53 | |
| Chương 63
Giọt nước. Rochefort vừa đi khỏi, bà Bonacieux đã trở lại, nàng thấy Milady mặt mũi tươi cười. - Thế nào! - Thiếu phụ nói - Điều mà chị lo sợ vậy là đã đến rồi chứ? Tối nay hay ngày mai Giáo chủ sẽ cho người đến bắt chị? - Ai bảo em như vậy nào, cô bé của tôi? - Milady hỏi. - Em nghe nói từ miệng của viên sứ giả. - Lại đây, ngồi gần chị vào - Milady nói. - Em đây. - Hãy khoan, để chị xem có ai nghe được chúng ta không đã. - Tại sao phải đề phòng như vậy? - Rồi em sẽ biết. Milady đứng lên đi ra mở cửa, nhìn hành lang, rồi trở lại ngồi bên bà Bonacieux. Mụ nói: - Thế là ông ta đã diễn tốt vai của mình rồi. - Ai cơ? - Người tự xưng với bà tu viện trưởng là phái viên của Giáo chủ đấy. - Vậy là ông ta diễn trò ư? - Đúng, cô em ạ. - Vậy, người đó không phải là… - Người đó - Milady hạ giọng - là ông anh của chị. - Ông anh của chị! - Bà Bonacieux kêu lên. - Chứ sao! Chỉ mình em biết bí mật này thôi đấy nhé, em bé ạ. Nếu em để lộ cho bất kỳ ai là chị nguy đấy, cả em cũng vậy. - Ôi lạy Chúa tôi! Nghe đây, chuyện là như thế này, anh chị đến cứu chị ra khỏi đây bằng vũ lực, nếu cần, nhưng gặp phải phái viên của Giáo chủ đến tìm chị. Anh chị đi theo hắn ta, đến một chỗ đường vắng và hẻo lánh, anh ấy rút gươm ra lệnh cho tên phái viên phải trao hết giấy tờ mang theo, tên kia định kháng cự, anh ấy đã giết chết hắn. - Ôi! - Bà Bonacieux rùng mình kêu lên. Đó là cách duy nhất, em cứ thử nghĩ xem. Thế là ông anh chị quyết định thay sức mạnh bằng mưu kế, anh ấy lấy hết giấy tờ ra mắt ở đây như chính bản thân phái viên của Giáo chủ, và trong khoảng một hai tiếng nữa, một cỗ xe sẽ nhân danh Giáo chủ đến bắt chị. - Em hiểu rồi, chiếc xe đó là do ông anh chị gửi đến cho chị. - Đúng vậy, nhưng chưa hết, bức thư mà em nhận được và em tin là của bà De Chevreuse. - Thì sao? - Là giả. - Sao lại thế? - Phải, giả đấy. Đấy là cái bẫy để em không chống cự lại khi người ta tới tìm em. - Nhưng là D Artagnan sẽ đến kia mà. - Em hãy tỉnh lại đi. D Artagnan và các bạn mình bị giữ lại ở cuộc vây thành La Rochelle kia mà. - Làm sao chị biết được điều ấy? - Anh chị gặp những phái viên của Giáo chủ trong quần áo ngự lâm. Họ sẽ gọi em ra cổng, em sẽ tưởng là có chuyện với các bạn mình, và họ sẽ bắt em đưa về Paris. - Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi đến nổ tung ra mất vì cái mớ hỗn mang đầy bất công này - Bà Milady lấy hai tay bóp trán nói tiếp - Tôi cảm thấy nếu việc cứ như thế này tôi phát điên mất - Khoan đã! - Gì thế? - Chị nghe tiếng vó ngựa, đấy là ông anh chị lại ra đi đấy. Chị muốn nói lời chào tạm biệt cuối cùng với anh ấy, lại đây. Milady mở cửa sổ và ra hiệu cho bà Bonacieux ra theo. Thiếu phụ đi đến đấy. Rochefort phi nước đại đi qua. - Tạm biệt, anh trai! - Milady nói to. Kỵ sĩ ngẩng cao đầu, nhìn thấy hai người thiếu phụ và vừa phi vừa giơ tay ra hiệu chào Milady thân mật. - Ôi cái anh Gioóc tốt bụng! - Mụ vừa nói đóng cửa sổ lại với vẻ mặt đầy yêu thương và buồn bã. Rồi mụ trở lại ngồi vào chỗ cũ như thể đang đắm mình trong những suy nghĩ hoàn toàn riêng tư. - Phu nhân thân mến? - Bà Bonacieux nói - Xin thứ lỗi cho em đã cắt ngang dòng suy nghĩ của chị! Nhưng chị khuyên em phải làm gì bây giờ? Chúa ơi! Chị có nhiều kinh nghiệm hơn em, chị hãy nói đi, em xin nghe đây. - Trước hết - Milady nói - có thể là chị nhầm lắm chứ và D Artagnan và các bạn của chàng sẽ thực sự đến với em. - Ôi! thế thì còn gì bằng? - Bà Bonacieux reo lên - chẳng lẽ em lại được hạnh phúc đến thế sao! - Ồ, em nên hiểu, vấn đề sẽ chỉ đơn giản là thời gian, một thứ chạy đua xem ai đến trước thôi. Nếu là các bạn em chạy nhanh hơn thì em sẽ được cứu thoát, nếu là bọn tay chân Giáo chủ thì em chết. - Ồ, phải, phải, chết khốn khổ khốn nạn! Vậy phải làm gì? làm gì? - Có một cách rất đơn giản, rất tự nhiên… - Cách gì, chị nói xem nào? - Là sẽ đợi, ẩn nấp vùng quanh đấy và để biết chắc những người đến đây tìm mình là ai? - Nhưng đợi ở đâu? - Ồ, không thành vấn đề. Cả chị nữa, chị cũng định trốn ở chỗ nào cách đây vài dặm để chờ anh chị đến gặp chị cơ mà. Chị sẽ đem em đi theo, chúng ta sẽ cùng trốn, sẽ cùng đợi. - Nhưng người ta không để cho em đi đâu. Em ở đây gần như một nữ tù nhân rồi. - Vì người ta tin là chị đi theo lệnh của Giáo chủ, nên sẽ không tin em vội vã đi theo chị đâu. - Em không hiểu? - Thế này nhé. Xe sẽ đỗ ở cổng. Em sẽ ra tạm biệt chị, em sẽ trèo lên bậc xe để ôm chị lần cuối. Tên gia nhân của ông anh chị đến đón chị sẽ được dặn trước, hắn ra hiệu cho bọn xà ích, và chúng ta phi luôn. - Nhưng còn D Artagnan, nhỡ chàng đến? - Chả nhẽ chúng ta lại không biết sao? - Làm sao biết được? - Không gì dễ hơn. Chúng ta sẽ cho tên gia nhân của ông anh chị quay lại Bêtuyn, ta có thể tin ở nó. Nó sẽ cải trang, sẽ cư trú đối diện với tu viện. Nếu bọn phái viên của giáo chủ đến nó sẽ không cựa quậy, nếu là D Artagnan và các bạn, nó sẽ đưa họ đến chỗ chúng ta. - Nó cũng biết họ ư? Hẳn rồi. Nó đã từng thấy D Artagnan ở nhà chị! - Ồ phải rồi, phải, chị nói có lý. Như thế, mọi việc đều ổn cả, mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng ta đừng ở xa đây quá. - Nhiều lắm là bảy tám dặm thôi. Chúng ta sẽ ở ngay trên biên giới. Giả dụ, có động tĩnh gì, chúng ta ra khỏi nước Pháp ngay. - Từ giờ đến lúc đó, ta làm gì? - Đợi thôi. - Nhưng nếu chúng đến? - Xe của ông anh chị sẽ đến trước bọn chúng. - Thế khi họ đến đón chị, em lại đang ăn trưa, ăn tối, không ở gần chị, chẳng hạn? - Thì làm một việc gì đó. - Việc gì? - Nói với bà nhất phúc hậu rằng để cho chị em mình được gần gũi nhau hơn chút ít, xin bà cho phép được ăn cơm cùng với chị. - Liệu bà có cho phép không? - Có vướng gì đâu mà không cho? - Ồ phải đấy, làm theo cách ấy thì chúng ta không rời nhau một giây. - Vậy thì, em hãy xuống chỗ bà mà xin đi! Chị cảm thấy nhức đầu, chị đi quanh vườn một lúc. - Vậy chị đi đi, nhưng em sẽ tìm chị ở đâu? - Độ một giờ nữa, ở đây thôi. - Một giờ nữa ở đây ư, ôi, chị tất quá, em cảm ơn chị. - Làm sao chị lại không quan tâm đến em được? Kể cả em không đẹp và duyên dáng, em chẳng phải là bạn gái của người bạn tốt nhất chị sao! - D Artagnan thân yêu ơi, chàng phải cám ơn chị đến chừng nào! - Chị rất mong là thế. Thôi nhé, thỏa thuận cả rồi, ta đi xuống thôi. - Chị ra vườn? - Ừ! - Chị đi theo hành lang, một cầu thang nhỏ sẽ dẫn chị xuống. - Tuyệt lắm, cám ơn! Và hai người đàn bà mỉm cười duyên dáng rời nhau ra. Milady nói thật. Mụ nhức đầu, bởi các dự định chồng chéo lên nhau như mớ bòng bong. Mụ cần được một mình để sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu. Mụ thấy tương lai còn mơ hồ. Cần phải có đôi chút yên tĩnh và bình tâm để đem lại cho những ý nghĩ hãy còn rối rắm một khuôn khổ rõ ràng, một kế hoạch dứt khoát. Điều cần gấp hơn cả, là bắt cóc được bà Bonacieux đưa đến một địa điểm an toàn, và ở đó trong trường hợp cần thiết sẽ biến thành một con tin. Milady bắt đầu thấy hoảng cho cái kết cục cuộc đấu khủng khiếp mà mụ càng sống mái bao nhiêu thì kẻ thù của mụ càng kiên gan bấy nhiêu. Hơn nữa, mụ còn có cảm giác như cơn dông ào tới, cái kết cục này đã gần lắm rồi và không thể không khủng khiếp. - Vậy điều chủ yếu đối với mụ là nắm lấy vợ lão Bonacieux trong tay. Vợ lão Bonacieux chính là sinh mạng của D Artagnan, còn hơn cả sinh mạng của hắn nữa, đó là sinh mạng người đàn bà hắn yêu, trường hợp xấu nhất, đó là phương sách để thương nghị và chắc chắn sẽ có lợi thế. Mà điều ấy thì đã chắc chắn rồi. Vợ lão Bonacieux, không chút nghi ngờ sẽ đi theo mụ. Một khi đã trốn cùng mụ ở Acmăngchie, sẽ dễ làm cho người đàn bà đó tin rằng D Artagnan không đến Betuyn. Trong vòng mười lăm ngày hoặc hơn thế, Rochefort sẽ quay lại, vả lại trong vòng mười lăm ngày ấy, mụ sẽ suy tính phải làm gì để báo thù bốn tên lính ngự lâm. Mụ chẳng làm gì phải buồn phiền, bởi vì nhờ trời, mụ sẽ có được một trò giết thời gian ngọt ngào nhất mà những biến cố có thể đem đến cho một người đàn bà có tính khí như mụ, đó là hoàn thiện kế hoạch trả thù. Trong lúc mơ màng, mụ vẫn đưa mắt nhìn quanh, sắp xếp trong đầu địa hình của khu vườn, Milady như một vị tướng tài tiên đoán đồng thời cả chiến thắng lẫn thất bại, và tùy theo thời cơ may rủi của trận chiến mà tiến lên hay vừa đáp vừa lùi. Khoảng một giờ sau, mụ nghe một tiếng nói dịu dàng gọi mình. Đó là tiếng của vợ lão Bonacieux. Bà tu viện trưởng phúc hậu đã hồn nhiên bằng lòng tất cả, và để bắt đầu, họ sẽ cùng ăn bữa tối nay. Vừa đến sân, họ đã nghe thấy tiếng xe đỗ ở ngoài cổng. Milady lắng nghe: - Em có nghe thấy gì không? - Có, tiếng xe lăn bánh. - Xe anh chị phái đến đấy. - Ôi! Chúa ơi! - Kìa, can đảm lên chứ! Người ta giật chuông gọi cửa tu viện, Milady đã không nhầm. Mụ nói với bà Bonacieux: - Em lên ngay buồng em, em chắc có ít đồ nữ trang phải mang theo chứ. - Em chỉ có những thư của chàng. - Thế thì đi lấy đi và đến ngay phòng chị, chúng ta ăn tối thật nhanh vào, có lẽ chúng ta phải đi mất gần hết đêm nay đấy, phải ăn để giữ sức. - Chúa ơi! - Bà Bonacieux đưa tay ôm ngực nói - Tôi hồi hộp đến ngạt thở thế này, tôi không đi nổi mất. - Can đảm lên, nào, phải can đảm lên chứ! Nên biết là mười lăm phút nữa là em được cứu thoát rồi và phải nghĩ là việc em sắp làm là chính vì chàng chứ. - Ồ vâng, tất cả vì chàng. Chị chỉ nói một câu thôi mà đã làm em can đảm lên rồi, nào chị đi đi, em theo chị đây. Milady vội lên ngay phòng mình và đã thấy người hầu của Rochefort, liền dặn dò hắn. - Hắn phải ra đợi ngoài cổng nếu không may, các chàng ngự lâm quân xuất hiện, thì phải đánh xe đi thật nhanh vòng một lượt quanh tu viện, và đến đợi Milady tại một làng nhỏ ở đầu cánh rừng. Trong trường hợp này, Milady sẽ đi xuyên qua vườn và đi bộ đến làng đó, vì Milady đã thuộc lòng vùng này của nước Pháp. Nếu những chàng ngự lâm không xuất hiện, mọi việc cứ tiến hành như đã thỏa thuận. Bà Bonacieux lên xe mượn cớ chào tạm biệt, và mụ sẽ cuốn nàng đi cùng. Bà Bonacieux vào phòng. Để gạt bỏ mọi nỗi nghi ngờ của nàng nếu có, Milady nhắc lại mấy câu dặn dò cuối cùng với người hầu. Milady hỏi vài ba câu về xe cộ. Đó là cỗ xe tam mã do một xà ích điều khiển. Tên người hầu của Rochefort phải cưỡi ngựa chạy trước như một phu trạm. Milady nghi ngại bà Bonacieux cũng bằng thừa. Người thiếu phụ tội nghiệp quá ngây thơ trong trắng, đâu có nghi ngờ gì một con đàn bà phản trắc đến như thế. Vả lại cái danh hiệu nữ Bá tước De Winter mà nàng đã nghe bà tu viện trưởng nhắc tới đối với nàng hoàn toàn xa lạ, nàng đâu biết mụ đàn bà lại góp một phần to lớn và tàn bạo đến thế vào những bất hạnh của đời nàng. - Em thấy đấy - Milady nói khi tên hầu đã đi ra - tất cả đã sẵn sàng. Bà tu viện trưởng chẳng hề nghi ngờ gì cả và tin rằng họ nhân danh Giáo chủ đến đây tìm chị. Cái tên đó sẽ ra những mệnh lệnh cuối cùng. Em hãy cố ăn lấy một chút; uống một ít rượu vang rồi ta khởi hành. - Vâng - Bà Bonacieux trả lời như một cái máy - Vâng, chúng ta khởỉ hành. Milady ra hiệu cho nàng ngồi trước mặt mình rót một cốc nhỏ vang Tây ban Nha và gắp cho nàng một miếng lườn gà giò. - Em thấy không - Mụ bảo nàng - có cái gì không phù hộ chúng ta đâu. Đêm đang xuống, rạng sáng mai là chúng ta đã tới nơi trú ẩn, và chẳng ai có thể nghi ngờ nơi ở của chúng ta. Nào, can đảm lên, ăn một chút gì đi. Bà Bonacieux ăn như một cái máy vài miếng và nhấm môi vào cốc rượu vang. - Nào uống đi - Milady đưa cốc rượu của mình lên môi - uống như chị đây này. Nhưng đúng lúc mụ đưa cốc gần tới miệng, tay mụ bỗng thõng xuống. Mụ vừa nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập từ xa đang phi nước đại đến gần, rồi hầu như đồng thời mụ nghe thấy cả tiếng ngựa hí. Tiếng động đó kéo mụ ra khỏi nỗi mừng vui như một cơn dông bừng dậy giữa giấc mộng vàng, mụ tái người đi và chạy ra cửa sổ, trong khi đó bà Bonacieux đứng dậy, toàn thân run lên, phải chống tay vào ghế để khỏi ngã. Họ không thấy gì nữa mà chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa phi mỗi lúc một gần. - Ôi Chúa ơi! - Bà Bonacieux nói - Tiếng vó ngựa đó là gì vậy? - Là của các bạn hoặc của kẻ thù của chúng ta - Milady trả lời với một vẻ bình tĩnh đáng sợ - Em ở đâu cứ ở yên đấy, có thế nào chị sẽ bảo em. Bà Bonacieux đứng ngây ra, câm lặng, bất động như một pho tượng. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một rầm rập hơn, chắc không quá một trăm năm mươi bước, tuy vẫn chưa trông thấy, đó là vì con đường có chỗ gấp khúc, tuy nhiên tiếng vó ngựa trở nên quá rõ đến nỗi có thể đếm được bao nhiêu con ngựa qua tiếng móng sắt đổ dồn dập xuống mặt đường. Milady cố giương mắt ra nhìn. Trời hãy còn khá sáng để nhận rõ những ai đang phi tới. Bỗng ở khúc ngoặt mụ thấy loang loáng những chiếc mũ đính ngự cài lông chim phần phật. Mụ đếm, hai, rồi năm, rồi tám kỵ sĩ, người nọ cách người kia chừng hai thân ngựa. Milady rên lên một tiếng than như bị tắc thở. Mụ nhận ra người đi đầu là D Artagnan. - Ôi Chúa ơi! Chúa ơi! - Bà Bonacieux kêu lên - có chuyện gì vậy? - Đó là đồng phục bọn cận vệ của Giáo chủ đấy. Không được để lỡ một giây nào nữa! - Milady kêu lên - Trốn thôi, trốn thôi. - Vâng, vâng, trốn thôi? - Bà Bonacieux lắp lại, nhưng không thể nhấc nổi chân, như bị đóng đinh tại chỗ vì quá đỗi kinh hoàng. Có tiếng ngựa chạy ngang qua phía dưới cửa sổ. - Lại đây nào? Kìa lại đây chứ! - Milady vừa hét lên vừa kéo tay thiếu phụ - nhờ có mảnh vườn, chúng ta còn có thể trốn thoát, chị có chìa khóa đây. Những nhanh lên, năm phút nữa là quá muộn mất rồi. Bà Bonacieux cố cất bước, được hai bước thì quỵ gối xuống. Milady cố đỡ nàng dậy và lôi nàng đi nhưng không nổi. - Đúng lúc ấy mụ nghe thấy tiếng bánh xe lăn vì thấy các chàng ngự lâm quân, chiếc xe đã chồm lên phóng mất. Rồi ba bốn tiếng súng nổ vang. - Lần cuối cùng tôi hỏi đây, cô có muốn đi không? - Ôi, Chúa ơi! Chúa ơi! Chị thấy rõ em không còn đủ sức nữa mà! Chị thừa thấy em không thể bước nổi nữa. Chị trốn một mình đi. - Trốn một mình ư? Để cô lại đây ư? Không, không, không đời nào! - Milady thét lên. Bỗng mụ đứng sững lại. Một ánh sắc xám tóe ra trong đôi mắt mụ. Mụ chạy tới bàn ăn, cậy cực nhanh mặt nhẫn lấy ra một chất gì trong đó đổ vào cốc rưòu của bà Bonacieux. Đó là một hạt màu đỏ nhờ, tan ra ngay lập tức. Rồi cầm chiếc cốc bằng bàn tay quả quyết và bảo bà Bonacieux. - Uống đi, loại vang này sẽ đem lại sức mạnh cho em, uống đi em. Và mụ đưa chiếc cốc lại gần môi thiếu phụ. Nàng uống theo như một cái máy. Milady đặt cốc xuống bàn vôi nụ cười độc địa, nhủ thầm: - Chà, thật ra ta cũng chẳng muốn trả thù thế này đâu, những còn làm được thì vẫn phải làm thôi. Và mụ lao ra khỏi căn phòng. Bà Bonacieux nhìn theo mụ chạy trốn, không thể đi theo. Nàng như người đang mơ thấy người ta truy đuổi mình mà có cố cũng không bước nổi. Vài phút trôi qua. Có tiếng đập cổng ầm ầm khủng khiếp. Mỗi giây, mỗi phút, bà Bonacieux lại mong thấy Milady quay lại nhưng không thấy. Nhiều lúc, hẳn vì hoảng sợ, mồ hôi lạnh toát ra trên vầng trán nóng bỏng của nàng. Cuối cùng nàng thấy tiếng kêu kin kít của cổng sắt mở ra, tiếng ủng và tiếng đinh thúc ngựa vọng lên trên cầu thang. Rồi tiếng rầm rì đang đến gần, và giữa những tiếng đó nàng nghe như thấy nói đốn tên ai đó. Bỗng nàng hét lên sung sướng và lao ra cửa, nàng nhận ra đó là tiếng của D Artagnan. - D Artagnan! D Artagnan! - Nàng hét lên - có phải chàng không? Đây cơ mà, đây cơ mà. - Constance? Constance - Chàng trai trẻ đáp - Em ở đâu? - Chúa ơi! Ngay lúc đó, cánh cửa căn phòng nhỏ bật tung ra(1). Nhiều người nhảy bổ vào trong phòng. Bà Bonacieux đã ngã xuống chiếc ghế băng và không thể cử động nữa. D Artagnan ném khẩu súng ngắn còn đang bốc khói vẫn cầm trong tay và quỳ xuống trước người yêu của mình. Athos cài súng của mình vào đai lưng. Porthos và Aramis tra gươm trần vào vỏ. - Ôi, D Artagnan? D Artagnan yêu dấu của em! Vậy là cuối cùng anh đã đến, anh không lừa dối em, đúng là anh đây mà! - Đúng, đúng anh đây, Constance ạ! Xum họp rồi! - Ôi! Thế mà bà ta cứ nói anh sẽ không đến, em cứ hy vọng thầm. Em đã không muốn trốn mà? Ôi, em làm thế là đúng quá rồi, em sung sướng biết bao! Nghe tiếng bà ta Athos đang ngồi yên liền đứng phắt lên. - Bà ta, bà ta là ai? - D Artagnan hỏi. - Là bạn của em mà, cái bà vì yêu mến em muốn giúp em thoát khỏi bọn bạo ngược, cái bà đã tưởng nhầm bọn anh là cận vệ của Giáo chủ, vừa mới trốn khỏi đây. - Bạn em! - D Artagnan kêu lên, mặt trắng nhợt ra hơn cả tấm voan trắng của người tình - em muốn nói đến người bạn nào vậy? - Là người có xe đỗ ở ngoài cổng, người đàn bà nói là bạn anh ấy, D Artagnan, người đàn bà mà anh đã kể hết với bà ta ấy. - Tên mụ, tên của mụ - D Artagnan hét lên - Chúa ơi, em không biết tên của mụ ư? - Có chứ, người ta đã nhắc tới cái tên đó trước mặt em, khoan đã, nhưng sao lạ thế này… Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi quay cuồng, tôi không thấy gì nữa. - Giúp tôi, các bạn, giúp tôi với! Tay nàng lạnh hết rồi - D Artagnan kêu lên - nàng ấm rồi. Chúa ơi! Nàng bất tỉnh rồi! Trong lúc Porthos hết sức gào lên kêu cứu, Aramis chạy đến bàn ăn lấy một cốc nước, nhưng chàng dừng lại vì thấy mặt Athos biến sắc đi khủng khiếp, vẫn đứng trước bàn, tóc dựng ngược lên, mắt đờ ra kinh hoàng nhìn vào một trong những chiếc cốc và đang day dứt bởi một ngờ vực khủng khiếp nhất. - Ôi! - Athos nói - Ôi! Không, không thể thế được! Chúa không cho phép một tội ác đến như vậy! - Nước, nước, D Artagnan thét lên - nước đâu? - Ô, người phụ nữ tội nghiệp, người phụ nữ tội nghiệp - Athos lẩm bẩm bằng một giọng xé lòng. - Bà Bonacieux mở lại mắt dưới những cái hôn của D Artagnan. - Nàng tỉnh lại rồi! - Chàng trai trẻ reo lên, ôi, lạy Chúa? Lạy Chúa tôi? Con cám ơn Người! - Thưa bà - Athos nói - Thưa bà, nhân danh Chúa trời, chiếc cốc uống cạn kia là cho ai? - Cho tôi, thưa ông… thiếu phụ trả lời bằng một giọng thều thào. - Nhưng ai đã rót rượu vang vào chiếc cốc đó? - Bà ta - Nhưng, bà ta là ai? - À, tôi nhớ ra rồi - bà Bonacieux nói - nữ Bá tước De Winter. Cả bốn người bạn đều cùng thét lên một tiếng duy nhất nhưng tiếng thét của Athos át đi tất cả. Cùng lúc ấy, mặt bà Bonacieux trở nên xám ngoét, một cơn đau ngấm ngầm đang vật vã nàng, nàng hổn hển ngã vào vòng tay của Porthos và Aramis. D Artagnan nắm chặt bàn tay Athos với một nỗi lo khó tả, và nói: - Thế nào! Anh tin. Chàng nức nở không nói được nên lời. - Tôi tin tất - Athos cắn môi đến bật máu để nén tiếng thở dài. - D Artagnan? D Artagnan? - Bà Bonacieux kêu lên - Anh ở đâu? Đừng rời bỏ em, anh biết rõ là em sắp chết mà? D Artagnan rời bàn tay Athos mà chàng vẫn còn đang co quắp nắm chặt lấy, chạy đến với nàng. Khuôn mặt rất đẹp của nàng đã hoàn toàn biến đổi, đôi mắt chong chong không còn nhìn vào đâu nữa, người nàng quằn quại, trán đầm đìa mồ hôi. - Nhân danh Chúa trời! Chạy đi, gọi lên, Porthos, Aramis, xin cấp cứu mau! - Vô ích thôi! - Athos nói - Vô ích, với thứ thuốc độc con mụ ấy đổ vào, không có thuốc giải độc đâu. - Vâng, vâng, gọi cấp cứu, gọi cấp cứu? - Bà Bonacieux lẩm bẩm - cấp cứu! Rồi, thu hết sức lực, nàng ôm lấy đầu chàng trai trẻ, nhìn chàng một lát, như thể tất cả linh hồn nàng đều thu vào đấy, và nghẹn ngào thét lên một tiếng, áp môi mình vào môi chàng. - Constance! Constance ơi! - D Artagnan thét lên. Một hơi thở hắt ra từ miệng nàng Constance, lướt qua miệng D Artagnan. Hơi thở ấy, chính là linh hồn trong trắng và trinh bạch và rất đỗi yêu thương đang bay trở về trời. D Artagnan chỉ còn ôm chặt một xác người trong tay. Chàng trai trẻ thét lên một tiếng và ngã vật ra cạnh người yêu của mình cũng tái nhợt đi và lạnh ngắt như nàng. Porthos khóc, Aramis giơ nắm đấm lên trời. Athos làm dấu thánh. Vừa lúc ấy một người đàn ông hiện ra ở trước cửa, hầu như cũng nhợt nhạt như những người ở trong phòng, nhìn khắp xung quanh, thấy bà Bonacieux đã chết, và D Artagnan đang ngất đi. Người này xuất hiện đúng vào giây phút kinh hoàng tiếp theo những thảm họa lớn. - Nếu tôi không nhầm - Ông ta nói - đây là ông D Artagnan và các ông là ba người bạn của ông ấy, các ông Aramis, Porthos và Aramis. Mấy người nghe thấy nói đến tên mình ngạc nhiên nhìn người lạ mặt. Cả ba đều hình như nhận ra ông ta. - Thưa các vị - người mới đến nói - các vị cũng như tôi đều tìm kiếm một con đàn bà mà - Ông ta mỉm một nụ cười ghê sợ - chắc nó đã qua đây, bởi tôi thấy ở đây có một xác chết. Cả ba người đều im không nói. Chỉ có tiếng nói và khuôn mặt là gợi họ nhớ đến một người đã từng gặp, tuy nhiên lại không thể nhớ rõ đã gặp trong trường hợp nào. - Thưa các vị - người lạ tiếp tục - thôi thì vì các ông chẳng buồn nhận ra một người có lẽ các ông đã hai lần cứu mạng, tôi đành phải xưng tên ra vậy. Tôi là Huân tước De Winter, em chồng của mụ đàn bà đó. Cả ba người cùng ồ lên kinh ngạc. Athos đứng dậy chìa tay ra cho ông ta và nói: - Rất hoan nghênh ông, Huân tước, ông là bạn bè của chúng tôi mà. - Từ Portsmouth đi sau con mụ đó năm giờ - Huân tước De Winter nói - Tôi đến Bulônhơ sau mụ ba tiếng, tôi đến Saint Ômê chậm hơn nó hai mươi phút, cuối cùng đến Liliê, tôi mất hút nó. Tôi đi lung tung hỏi thăm mọi người thì thấy các ông đang phi ngựa qua rất nhanh. Tôi gọi các ông, các ông không trả lời. Tôi muốn đi theo, nhưng ngựa tôi đã quá mệt, không thể đi ngang tầm ngựa của các ông. Và tuy nhiên, hình như các ông mặc dầu đã đi nhanh đến thế mà vẫn bị quá muộn khi đến nơi, ông thấy đấy - Athos vừa nói vừa chỉ cho ông De Winter bà Bonacieux đã chết và D Artagnan thì Porthos và Aramis đang cố gọi cho tỉnh lại. - Cả hai đều chết ư? - De Winter hỏi. - Không, may sao, D Artagnan chỉ bị ngất - Athos trả lời. - Thế thì tốt rồi! Quả nhiên, đúng lúc đó, D Artagnan mở mắt. Chàng rứt ra khỏi tay Porthos và Aramis, như một người mất trí vồ lấy thi thể người yêu của mình. Athos đứng lên, bước lại phía bạn mình, chậm rãi trang nghiêm, trìu mến ôm lấy chàng và vì chàng đang nức nở, Aramis nói với chàng bằng một giọng đầy vẻ thuyết phục và cao thượng: - Bạn ạ, hãy đàn ông lên nào, chỉ đàn bà mới khóc người chết, còn đàn ông phải trả thù cho họ! - Ồ, đúng - D Artagnan nói – Đúng! Nếu là để trả thù, tôi sẵn sàng theo anh! Nhằm lúc hy vọng trả thù đem lại sức mạnh tinh thần cho người bạn bất hạnh, Athos ra hiệu cho Porthos và Aramis đi tìm bà nhất. Hai người gặp bà ở hành lang, còn đang hoàn toàn hoang mang, bối rối trước bao nhiêu biến cố. Bà gọi mấy nữ tu sĩ, trái với tục lệ của tu viện được tiếp xúc với năm người đàn ông. - Thưa bà - Athos vừa khoác tay D Artagnan vừa nói - chúng tôi xin để lại để nhờ bà lo việc nhân đức cho thi hài của người đàn bà bất hạnh này. Đó là một thiên thần nơi trần thế trước khi trở thành thiên thần trên thượng giới. Xin bà hãy lo mai táng nàng như một trong các nữ tu sĩ của bà. Chúng tôi sẽ quay lại cầu nguyện bên nấm mộ của nàng sau. D Artagnan úp mặt mình vào ngực Athos òa lên nức nở. - Khóc đi - Athos nói - khóc đi trái tim đầy tình yêu của tuổi trẻ và sức sống! Ôi, tôi cũng muốn có thể khóc được như bạn lắm! Rồi chàng dìu bạn mình đi, âu yếm như một người cha, an ủi như một tu bĩ, Và cao cả như một người đã từng chịu nhiều đau khổ. Rồi cả năm người, theo sau là những người hầu, lên ngựa tiến về thị trấn Bêtuyn, gặp một quán trọ ở đấy, họ dừng lại. - Nhưng chúng ta không truy đuổi con mụ đó ư? - D Artagnan hỏi. - Để sau đã - Athos nói -tôi đã có cách rồi. - Nó sẽ thoát mất - Chàng trai trẻ nói tiếp - nó sẽ thoát mất thôi, và sẽ là lỗi ở anh đấy, Athos ạ. - Tôi xin đảm bảo về nó - Athos nói. D Artagnan rất tin vào lời hứa của bạn mình nên chàng chỉ lặng lẽ cúi đầu đi vào quán. Porthos và Aramis nhìn nhau, chẳng hiểu gì về lời cam đoan của Athos. Huân tước De Winter thì lại tin chàng nói thế để làm vơi dịu nỗi đau đớn của D Artagnan. Khi đã yên tâm lữ điếm còn năm phòng trống, Athos nói: - Bây giờ xin các vị lui về phòng mình. D Artagnan cần được một mình để khóc và ngủ. Tôi sẽ lo tất cả. Xin cứ yên tâm. - Tuy nhiên, tôi thấy hình như - Huân tước De Winter nói - nếu như phải dùng cách nào để đối phó với con mụ nữ Bá tước ấy thì việc đó phải liên quan đến tôi, nó là chị dâu tôi. - Còn tôi - Athos nói - nó là vợ tôi. D Artagnan mỉm cười, bởi chàng hiểu Athos một khi đã tiết lộ ra cái bí mật ấy tức là anh ấy đã tin chắc vào việc trả thù. Porthos và Aramis nhìn nhau tái người đi. Huân tước thì nghĩ Athos là một gã điên. - Các vị về phòng mình đi - Athos nói - cứ để mặc tôi làm. - Các vị quá rõ với tư cách là chồng mụ, thì việc đó liên quan đến tôi Có điều, D Artagnan, nếu cậu chưa làm mất, hãy trao lại mẩu giấy đã tuột khỏi mũ thằng cha đó, và trên giấy ghi tên một làng… - À! D Artagnan nói - tôi hiểu rồi, cái tên ấy do chính tay mụ ta viết… - Cậu thấy chưa? - Athos nói - vẫn có Chúa ở trên trời đấy chứ? Chú thích: (1) Đây cũng là một sự sơ xuất của tác giả. Vì Milady sau khi đầu độc Constance lao ra khỏi phòng. Constance không đóng cửa lại. Milady cũng không khóa ngoài, thì làm sao lại phải đạp cửa tung ra? |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:54 | |
| Chương 64
Người khoác áo choàng đỏ. Nỗi thất vọng của Athos đã nhường chỗ cho một nỗi đau bị dồn nén khiến trí tuệ sáng suốt của chàng lại càng minh mẫn hơn. Tất cả đều dồn vào một ý nghĩ duy nhất, mà chàng đã hứa, và trách nhiệm chàng đã nhận. Chàng là người cuối cùng trở về phòng mình, yêu cầu chủ quán kiếm cho chàng một tấm bản đồ của tỉnh. Rồi cúi xuống bản đồ tìm kiếm những đường nét đã vạch ra, thấy có bốn con đường đi từ Betuyn đến Acmăngchie, liền gọi những người hầu. Planchet, Grimaud, Mousqueton và Bazin đều có mặt để nhận những mệnh lệnh rõ ràng, chuẩn xác và nghiêm trọng của Athos. Mờ sáng hôm sau, họ phải lên đường mỗi người một ngả khác nhau đến Acmăngchie. Planchet, lanh lợi hơn cả phải đi theo con đường mà cỗ xe đã biến mất, và bốn người đã bắn theo, và người ta nhớ ra, đi kèm còn có tên đầy tớ của Rochefort. Athos giao trách nhiệm cho họ đi trước, bởi vì, từ khi họ phục vụ bọn chàng, chàng đã nhận ra những phẩm chất thiết yếu khác nhau của mỗi người bọn họ. Thế rồi, những người hầu có hỏi han những người đi đường, cũng ít gây ra nghi ngờ hơn là chủ của họ và cũng dễ gây được cảm tình hơn đối với những người đó. Cuối cùng, Milady đều biết các ông chủ bọn họ, nhưng lại không biết các người hầu. Trái lại, bọn họ lại biết quá rõ Milady. Cả bốn phải hội lại với nhau vào mười một giờ hôm sau, nếu phát hiện được chỗ ẩn náu của Milady thì ba người phải lở lại canh giữ mụ, người thứ tư trở về Bêtuyn báo cho Athos và dẫn đường cho bốn người bạn. Sắp xếp đâu vào đấy những người hầu lần lượt rút lui. Athos liền đứng dậy đeo gươm, khoác áo choàng vào và ra khỏi lữ điếm. Lúc ấy đã gần mười giờ đêm. Vào giờ ấy ở tình lẻ phố xá thường vắng vẻ. Tuy nhiên, rõ ràng là Athos đang tìm kiếm một người nào đó mà chàng có thể hỏi một điều. Cuối cùng, cũng gặp được một người về muộn, liền lại gần người đó và nói với người này mấy câu. Người này kinh hãi lùi lại, tuy nhiên vẫn chỉ dẫn cho chàng, Athos biếu người đó một đồng nửa pítxtôn để người ấy dẫn chàng đi, nhưng người này từ chối. Athos đi sâu vào trong phố theo hướng người kia chỉ tay. Nhưng đến ngã tư, chàng lại phải dừng lại, rõ ràng đang lúng túng. Tuy nhiên, hơn bất cứ chỗ nào, ngã tư dễ gặp người hơn, chàng dừng lại. Quả nhiên, một lát sau, một tuần đêm đi qua. Athos nhắc lại với anh ta vẫn câu hỏi mà chàng hỏi người gặp trước. Người tuần đêm cũng lộ vẻ kinh hãi, từ chối dẫn đường cho Athos, và lại chỉ ra con đường mà chàng phải đi theo. Athos bước theo hướng đã chỉ và đi đến vùng ngoại ô ở đầu kia thị xã, đối diện với vùng mà chàng cùng các bạn đã đi vào. Đến đây, chàng lại lo lắng và bối rối, lần thứ ba phải dừng lại. May sao, một người ăn mày đi qua, lại gần Athos để xin bố thí. Athos ngỏ ý cho một đồng êquy vàng để hắn ta dẫn chàng đi. - Người ăn mày do dự một lát, nhưng nhìn thấy đồng tiền lấp lánh trong bóng đêm, hắn quyết định và đi trước Athos. Đến một góc phố, hắn chỉ cho chàng một ngôi nhà hẻo lánh đơn độc và buồn thảm ở phía xa. Athos lại gần ngôi nhà đó, trong khi đó người ăn mày, khi đã nhận được tiền công liền cuốn gói đi ngay. Athos đi một vòng quanh ngôi nhà quét vôi đỏ, trước khi nhận ra chiếc cửa ở chính giữa. Không một chút ánh sáng lọt qua khe cửa, không một tiếng động để có thể coi là nhà có người ở Ngôi nhà âm u và im lìm như một nấm mồ. Athos gõ cửa đến ba lần mà vẫn không ai trả lời. Tuy nhiên, lần thứ ba, có tiếng chân bên trong đang bước lại gần. Cuối cùng thì cửa cũng hé mở, một người đàn ông cao lớn, nước da mái(1) râu tóc đen hiện ra. Athos khẽ trao đổi với người đó vài câu, thế rồi người đó ra hiệu cho chàng có thể vào nhà. Athos thấy thế vào liền và cánh cửa đóng lại sau lưng chàng. Người đàn ông mà Athos phải từ xa và biết bao vất vả đến tìm kiếm, đưa chàng vào phòng thí nghiệm của hắn, ở đó hắn đang bận dùng dây thép xâu lại những khúc xương va vào nhau lách cách của một bộ xương người. Tất cả đều được sắp xếp đúng vào vị trí chỉ còn cái đầu lâu là đang đặt trên bàn. Mọi thứ còn lại của nội thất chứng tỏ chủ nhân quan tâm đến khoa học tự nhiên. Có những bình đựng đầy rắn dán nhãn tùy theo loài, những con thằn lằn sấy khô, lóng lánh như ngọc bích nạm trên những khung tranh lớn bằng gỗ mun. Cuối cùng là những bó cỏ dại thơm nức, mà chắc hẳn có những công năng ít người biết tới, và được treo trên trần nhà, lõng thõng ở các góc nhà. Hơn nữa, người đàn ông cao lớn, không gia đình không vợ con, không kẻ hầu người hạ, sống một mình trong ngôi nhà. Athos đưa mắt lạnh lùng lãnh đạm nhìn mọi vật trong nhà và theo lời mời, ngồi xuống cạnh người đó. Rồi chàng giải thích lý do chàng đến thăm và công việc chàng yêu cầu hắn làm, nhưng chàng vừa yêu cầu xong thì người lạ vẫn đang đứng cũng hoảng hết lùi lại và từ chối. Thế là Athos liền rút trong túi ra một tờ giấy nhỏ, trên đó viết hai dòng kèm theo chữ ký và con dấu đưa cho con người chưa chi đã tỏ ra ghê tởm ấy xem. Người đàn ông cao lớn vừa đọc xong hai dòng chữ ấy, nhìn thấy chữ ký và nhận ra con dấu, liền nghiêng mình tỏ ý không còn gì để bác bỏ nữa và sẵn sàng tuân lệnh. Athos không yêu cầu gì hơn. Chàng đứng dậy, chào, đi ra, lại đi theo con đường cũ trở về lữ điếm và chui vào phòng mình. Rạng sáng, D Artagnan vào phòng Athos và hỏi phải làm gì. - Chờ đợi - Athos trả lời. Mấy phút sau, bà nhất tu viện cho người đến báo việc mai táng sẽ được tiến hành vào buổi trưa. Còn về con mụ đầu độc, người ta vẫn chưa có tin tức gì, chỉ biết chắc nó trốn qua lối vườn, trên cát người ta còn nhận ra vết chân mụ, và cửa ra vườn đóng nhưng chìa khóa đã biến mất. Bốn người bạn và Huân tước De Winter trở về đúng giờ mai táng. Chuông rung hết cỡ, tiểu giáo đường mở toang cửa, hàng rào nơi dàn đồng ca khép lại, thi hài nạn nhân được mặc lại quần áo nữ tu mới quy giáo, được đặt chính giữa dàn đồng ca. Ở mỗi bên dàn đồng ca và đằng sau hàng rào trông ra toàn bộ tu viện là cộng đồng các nữ tu sĩ dòng Cácmel đứng nghe thánh lễ và hòa giọng mình vào giọng hát kinh của các giáo sĩ, mắt không nhìn những người phàm tục và cũng không để họ nhìn mình. Trước cửa tiểu giáo đường, D Artagnan lại cảm thấy mình không còn đủ can đảm nữa, chàng quay lại tìm Athos, nhưng Athos đã biến mất. Trung thành với trách nhiệm trả thù, Athos nhờ người đưa ra vườn, ở đó, trên cát, lần theo vết chân rón rén của con đàn bà đi qua bất cứ nơi đâu cũng để lại vết máu, chàng tiến đến cái cổng mở ra mảnh rừng, nhờ người ta mở của rồi đi sâu vào rừng. Lúc này, mọi nghi ngờ của chàng đều được khẳng định. Con đường mà chiếc xe đã biến mất, chạy vòng quanh rừng, Athos đi theo con đường đó ít lâu, mắt chăm chăm nhìn xuống đất thấy những vết máu nhỏ từ vết thương hoặc của kẻ đi theo xe như phu trạm, hoặc của một trong mấy con ngựa nhỏ giọt xuống nền đường. Đi khoảng độ ba phần tư dặm, cách Fetxtube khoảng năm mươi bước chân, vết máu loang rộng ra. Nền đường bị vó ngựa dẫm nát. Giữa mảnh rừng và chỗ này, hơi lui về phía sau một chút, lại thấy dấu những vết chân thon nhỏ như ở trong vườn, chiếc xe đã dừng lại. Và Milady đã ra khỏi rừng và lên xe ở chỗ đó. Hài lòng với việc phát hiện đã khẳng định mọi sự ngờ vực của mình, Athos trở về lữ điếm và thấy Planchet đang nóng ruột chờ mình. Tất cả đều đúng như Athos đã dự đoán. Planchet đã đi theo con đường đó, giống như Athos cũng để ý đến các vết máu, nhận ra chỗ xe dừng lại, nhưng anh ta còn tiến xa hơn Athos, thành thử đến làng Fetxtube, vào uống trong một quán ăn, không cần hỏi, anh ta cũng biết được đêm trước, khoảng tám rưỡi tối, một người đàn ông bị thương đi hộ tống một phu nhân đi du hành trên một cỗ xe trạm, đã buộc phải dừng lại không thể đi tiếp. Tai nạn được gán cho bọn trộm cướp đã chặn xe lại ở trong rừng. Người đàn ông ở lại trong làng đó, người đàn bà thay ngựa và tiếp tục lên đường. Planchet liền đi lùng tên xà ích đã đáp chiếc xe ấy và tìm được hắn. Hắn đã đưa vị phu nhân đó đến tận Frômen và từ Frômen, mụ ta đến Acmăngchie. Planchet liền đi theo lối tắt và bẩy giờ sáng đã ở Acmăngchie. Ở đó chỉ có mỗi một lữ quán, đó là lữ quán của bưu trạm. Planchet đến đó tự giới thiệu mình như một gã hầu không có việc làm đi tìm việc. Anh ta chuyện trò với những người trong lữ quán không đến mười phút đã biết được một người đàn bà một mình đến đây vào lúc mười một giờ đêm, đã thuê một phòng, và đã cho gọi chủ quán đến và bảo rằng muốn lưu lại một thời gian trong vùng quanh đây. Planchet không cần biết gì hơn. Anh ta chạy đến chỗ hẹn, thấy ba người hầu kia đã đến đúng vị trí, liền cắt cử ba người canh giữ mọi lối ra của lữ quán, và trở về tìm Athos. Athos vừa nghe xong những tin tức thu lượm được của Planchet, thì các bạn của chàng cũng bước vào. Mặt mũi ai nấy đều u uất và cau có, ngay cả khuôn mặt hiền dịu của Aramis. - Phải làm gì bây giờ? - D Artagnan hỏi. - Đợi - Athos trả lời. Ai nấy đều trở về phòng mình. Tám giờ tối, Athos hạ lệnh đóng yên cương ngựa, và báo cho các bạn mình và Huân tước De Winter chuẩn bị sẵn sàng để lên đường Trong giây lát, cả năm người đã chuẩn bị xong. Mỗi người đều kiểm tra lại vũ khí và nạp thuốc đạn sẵn. Athos xuống sau cùng và thấy D Artagnan đã lên ngựa và đang sốt ruột. - Hãy kiên nhẫn - Athos nói - ta còn thiếu một người. Bốn kỵ sĩ nhìn quanh ngạc nhiên, bởi tìm mãi trong đầu cũng chẳng thấy ai có thể thiếu đây. Vừa lúc ấy, Planchet dắt ngựa của Athos đến, chàng nhẹ nhàng nhảy lên yên và nói: - Chờ tôi đã, tôi quay lại ngay. Và chàng phi nước đại. Mười lăm phút sau, quả nhiên chàng quay lại đi cùng có một người đeo mặt nạ, và khoác một chiếc áo choàng đỏ rộng. Ông De Winter và ba người bạn đưa mắt hỏi nhau. Chẳng ai trong bọn họ có thể cho người khác biết rõ chuyện gì bởi tất cả đều không biết người đó là ai. Tuy nhiên tất cả đều nghĩ rằng cần phải như thế bởi vì việc đó được làm theo lệnh của Athos. Chín giờ đoàn người ngựa được Planchet hướng dẫn, lên đường theo đúng con đường mà chiếc xe đã đi. Thật là một cảnh tượng buồn thảm khi sáu con người im lìm phóng ngựa, đắm mình trong những ý nghĩ riêng tư, tê tái như sự tuyệt vọng, u uất như sự trừng phạt. Chú thích: (1) Không có ánh đèn lọt ra. lại giữa đêm làm sao nhận ra được nước da mai mái? - ND. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:54 | |
| Chương 65
Phán xử. Đêm ấy là một đêm giông tố và u ám, những đám mây lớn cuồn cuợn trên trời, che hết ánh sáng các vì sao, đến nửa đêm trăng mới mọc. Đôi khi, qua ánh chớp lóe lên phía chân trời, cũng thấy rõ được con đường trải ra trắng xóa và đơn độc. Chớp tắt, tất cả lại tối om. Thỉnh thoảng Athos lại phải nhắc nhở D Artagnan luôn luôn đi đầu đoàn là phải giữ vững cự ly, nhưng một lúc sau, chàng lại bỏ xa cả đoàn. Chàng chỉ có một ý nghĩ duy nhất là tiến lên phía trước và cứ tiến phứa lên. Họ lặng lẽ đi xuyên qua làng Fetxtube, nơi tên đầy tớ bị thương phải lưu lại, rồi đi dọc cánh rừng Ritsơbua. Planchet vẫn dẫn đường cho đoàn người đến Hecliê thì rẽ trái. Nhiều lúc, khi thì Huân tước De Winter, khi thì Porthos, khi thì Aramis định thử bắt chuyện với người mặc áo choàng đỏ nhưng mỗi khi hỏi, người này chỉ nghiêng mình không trả lời. Mọi người bấy giờ đều hiểu rằng chắc phải có một lý do nào đó, nên người là mặt này mới giữ yên lặng như thế, nên cũng thôi không hỏi nữa. Hơn nữa, cơn giông lớn dần, chớp nhoáng nhoàng nối tiếp nhau, sấm bắt đầu gầm thét, và gió rít trên lông chim và đầu tóc các kỵ sĩ báo hiệu phong ba. Đoàn người ngựa vẫn phi nước kiệu. Ra khỏi Frômen một quãng, cơn giông bùng nổ. Mọi người phanh áo choàng ra. Còn phải đi ba dặm đường nữa. Họ đi dưới trời mưa như thác đổ. D Artagnan đã bỏ mũ ra và cũng chẳng mặc áo khoác. Chàng thấy thích thú mặc cho nước chảy ròng ròng trên vầng trán nóng bỏng và trên cơ thể đang rùng rùng lên cơn sốt của mình. Lúc tốp người đã vượt khỏi Gôtxkan và sắp tới bưu trạm, một người đàn ông, trú dưới một gốc cây, lẫn trong bóng tôl, tách ra, tiến ra giữa đường giơ ngón tay đặt lên môi. Athos nhận ra Grimaud - Có chuyện gì vậy? - D Artagnan kêu lên - mụ ta đã rời khỏi Acmăngchie rồi ư? Grimaud gật đầu khẳng định điều đó. D Artagnan nghiến răng. - Im nào, D Artagnan! - Athos nói - chính tôi đã chịu trách nhiệm tất cả cơ mà, vậy phải để tôi hỏi Grimaud chứ. Nó đi đâu? Grimaud chỉ tay về hướng sông Litx. - Xa đây không? - Athos hỏi. Grimaud giơ ra cho chủ mình ngón tay trỏ đã gấp. - Một mình à? Grimaud gật đầu. - Các vị Athos nói - nó đang ở một mình cách đây nửa dặm, ở phía đông. - Tốt lắm - D Artagnan nói - dẫn bọn ta đi, Grimaud. Grimaud vượt qua đường, dẫn đoàn người ngựa đi. Đi được khoảng năm trăm bước, thì gặp một con suối, họ lội qua dễ dàng. Qua ánh chớp khác lóe lên, Grimaud dang tay ra chỉ và qua ánh chớp xanh lè, người ta thấy rõ một ngôi nhà đơn độc bên bờ sông, cách bến đò ngang chừng trăm bước. Một cửa sổ có ánh đèn. Athos nói: - Chúng ta đến nơi rồi. - Đúng lúc đó, một người nằm dưới một cái hố đứng dậy. Đó là Mousqueton, gã chỉ cái cửa sổ có ánh sáng và nói: - Mụ ở đó. - Bazin đâu? - Athos hỏi. - Trong khi tôi canh gác cửa sổ, hắn ta gác ở cổng. - Tốt lắm - Athos nói - các anh tất cả đều là những người giúp việc trung thành. Athos nhảy từ trên lưng ngựa xuống, đưa dây cương, cho Grimaud tiến đến phía cửa sổ sau khi đã ra hiệu cho mọi người vòng ra phía cổng. Ngôi nhà nhỏ được bao quanh bằng một hàng rào cây xanh cao già nửa mét. Athos bước qua hàng rào đến tận cửa sổ không có ván chắn gió nhưng có rèm lửng che kín. Chàng trèo lên bờ đá chân tường để mắt có thể nhìn qua bên trên tấm rèm. Dưới ánh đèn, chàng nhìn thấy một người đàn bà khoác một áo choàng không tay màu tối, ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên đống lửa sưởi đang tàn, khuỷu tay tựa lên một chiếc bàn tồi tàn và đang ôm đầu trong đôi tay trắng mịn như ngà voi. - Không thể trông rõ mặt, nhưng một nụ cười thảm khốc lướt trên môi Athos, không thể nhầm vào đâu được nữa, đó chính là con đàn bà chàng đang tìm kiếm. - Đúng lúc ấy, một con ngựa hí lên. Milady ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của Athos dán vào ô kính liền thét lên. Athos hiểu mụ đã nhận ra mình, liền lấy đầu gối và tay đẩy bật cửa sổ, các ô kính vỡ ra. Và Athos như một hồn ma báo oán, nhảy vào trong phòng. Milady chạy ra cửa và mở ra. Nhưng còn xanh hơn và dữ tợn hơn Athos, D Artagnan đã ở ngay ngưỡng cửa. Milady thét lên và lùi lại. D Artagnan sợ rằng mụ còn có cách nào đó để trốn thoát, liền rút ngay súng ngắn ở đai lưng ra, nhưng Athos giơ tay ngăn lại. - Cứ để yên súng đấy, D Artagnan. con đàn bà này cần phải được xét xử chứ không phải bị ám sát. Cứ đợi đó một lát thôi, D Artagnan, rồi cậu sẽ được hài lòng. Nào các vị, xin mời vào cả đây D Artagnan tuân lệnh bởi Athos nói bằng một giọng long trọng và với dáng điệu uy quyền của một vị phán quan do chính Thượng đế phái xuống. - Thế rồi, sau D Artagnan, Porthos, Aramis, Huân tước De Winter và người mặc áo choàng đỏ vào theo. Bốn người hầu canh giữ ngoài cổng và cửa sổ. Milady ngã xuống chiếc ghế tựa, hai tay dang ra như để cầu xin giải trừ sự hiện diện khủng khiếp này. Nhận ra người em chồng, mụ thét lên một tiếng kêu hãi hùng. - Ông muốn gì? - Milady kêu lên. Athos nói: - Chúng ta đòi Sáclốt Bêchxơn, lúc đầu được mang tên nữ Bá tước de la Fe, rồi tiếp đó là phu nhân De Winter, nữ Nam tước vùng Sepfin có mặt. - Là tôi, là tôi đây! - Milady hoảng sợ tới cực điểm, lẩm bẩm - Ông muốn gì tôi? Athos nói: - Chúng ta muốn xét xử mụ theo đúng những tội ác mụ làm. Mụ sẽ được tự do bào chữa, hãy minh oan cho mụ nếu mụ có thể. Thưa ông D Artagnan, xin ông buộc tội trước tiên. D Artagnan tién lên nói: - Trước Đức Chúa và trước con người nói chung, tôi buộc tội con đàn bà này đã đầu độc nàng Constance Bonacieux đêm qua. Chàng quay lại phía Porthos và Aramis. - Chúng tôi xác nhận - cả hai chàng ngự lâm quân cùng nói. D Artagnan tiếp tục: - Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã định đầu độc chính tôi, bằng rượu vang mụ gửi cho tôi từ Vilơroa với một bức thư giả mạo, như là vang của các bạn tôi. Chúa đã cứu thoát tôi, nhưng một người đã chết thay tôi, người ấy tên là Bridơmông. - Chúng tôi xác nhận - Porthos và Aramis lại cùng nói. - Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã xui tôi giết Nam tước de Wardes và vì không có ai ở đó để xác nhận việc cáo buộc này là sự thực, tôi xin tự xác nhận. Tôi đã nói xong. Và D Artagnan chuyển qua cạnh phòng, gần Porthos và Aramis. - Đến lượt ông, Huân tước? - Athos nói. Đến lượt Nam tước bước lại gần, ông nói: - Trước Đức chúa và con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã cho người ám sát Quận công De Buckingham. - Quận công De Buckingham bị ám sát rồi ư? - Tất cả mọi người tham dự đều kêu lên. - Vâng - Huân tước nói - bị ám sát rồi! Theo bức thư mà ông đã báo cho tôi, tôi đã cho bắt giữ con mụ này và tôi đã giao cho một người giúp việc trung thực canh giữ mụ. Mụ đã làm cho anh ta sa ngã, đã đặt dao găm vào tay anh ta để giết Quận công. Và lúc này có lẽ, Felten, tên anh ta, đã bị chặt đầu để trả giá cho tội ác điên rồ của hắn. Tất cả các phán quan đều rùng mình về việc phát giác những tội ác mà mọi người chưa biết này. - Chưa phải tất cả! - Huân tước De Winter nói tiếp - anh trai ta, người đã để lại tài sản thừa kế cho mụ đã chết trong vòng ba tiếng đồng hồ vì một căn bệnh kỳ lạ, để lại những vết bầm tím trên khắp cơ thể. Mụ chị dâu kia, chồng mụ đã chết như thế nào? - Khủng khiếp quá! - Cả Porthos lẫn Aramis đều kêu lên. - Kẻ giết Buckingham, giết Felten, giết anh trai ta, ta đòi công lý xử tội ngươi, và ta tuyên bố, nếu người ta không làm điều ấy cho ta, ta sẽ tự làm lấy. Và Huân tước De Winter đến xếp hàng bên D Artagnan, dành chỗ cho người buộc tội khác. Milady gục đầu trong hai bàn tay và cố nhớ lại những ý nghĩ hỗn độn của mụ bởi một cơn choáng váng dữ dội. - Đến lượt tôi - Athos, nói người run lên như một con sư tử run lên trước con rắn độc - Đến lượt tôi. Trước đây tôi đã cưới mụ đàn bà đó khi nó còn là một thiếu nữ, tôi đã cưới nó bất chấp tất cả mọi người trong gia đình, tôi cho nó của cải, cho nó danh phận của tôi, và một hôm tôi chợt thấy mụ đàn bà đó bị đóng dấu chín về tội ô nhục, mụ đàn bà đó bị đóng dấu bông hoa huệ bên vai trái. - Ồ! - Milady đứng ngay dậy - tôi thách tìm lại được cái tòa án đã tuyên phạt tôi tội hình nhục nhã ấy. Tôi cũng thách tìm lại được người đã thi hành tội ấy. - Im đi - một giọng người cất lên - về việc này, thì đã có ta trả lời. Và người mặc áo choàng đỏ đến lượt mình lại gần. - Người này là người nào, người này là người nào? - Milady kêu lên, như người tắc thở bởi nỗi kinh hoàng và tóc xổ tung ra, và dựng đứng lên như thể những con vật sống trên bộ mặt xám ngoét. Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, bởi trừ Athos, với tất cả, đó còn là một người lạ. Mà Athos cũng còn sững sờ như mọi người khác vì chàng cũng không hiểu làm sao mà con người này lại dính dáng đến tấn thảm kịch khủng khiếp đang ở đoạn sắp kết thúc này. Từ tốn và trịnh trọng bước đến gần, chỉ còn cách Milady cái bàn, người lạ mặt bỏ mặt nạ ra. Milady nhìn người này một lúc, nỗi kinh hoàng càng tăng thêm, cái khuôn mặt tái nhợt râu tóc đen ngòm, cái gì cũng khiếp, chỉ duy nhất ngoại trừ vẻ bình thản lạnh lùng. Rồi thình lình mụ kêu lên: - Ồ không không - Mụ đứng dậy và lùi tận sát tường - - Không, không, đây là ma quỷ hiện hình! Đây không phải hắn! Cứu tôi? Cứu tôi! - Mụ kêu tiếp giọng khản đi và quay mặt vào tường, như thể mở nổi một lối thoát bằng hai tay mụ. Mọi nhân chứng trong cảnh đó đều kêu lên: - Nhưng ông là ai vậy? - Xin cứ hỏi mụ đàn bà này - Người đàn ông mặc áo choàng đỏ nói - bởi vì các ông thấy rõ là mụ ta đã nhận ra tôi? - Tên đao phủ ở Lilơ, đao phủ ở Lilơ. Milady sợ đến phát điên, vừa kêu lên vừa phải bấu chặt hai tay vào tường cho khỏi ngã. Mọi người giãn ra, chỉ còn mỗi người mặc áo choàng đỏ đứng ở giữa phòng. Con khốn nạn quỳ sụp xuống kêu lên: - Ôi, xin tha chết! Xin tha chết! Người lạ mặt để cho mọi thứ ổn định lại mới nói tiếp: - Tôi đã nói với các ông mà, thế nào mụ cũng nhận ra tôi! - Đúng tôi là đao phủ của thành Lilơ. Sau đây là chuyện của tôi. Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, hau háu chờ nghe ông ta nói. "Thiếu phụ này ngày xưa là một cô gái cũng đẹp như mụ ta hiện nay. Mụ là nữ tu sĩ ở tu viện dòng thánh Bênêđích ở Tămplôma. Một giáo sĩ trẻ lòng dạ hồn nhiên và sùng đạo phục vụ tại tu viện này. Mụ tính chuyện quyến rũ ông ta và đã thành công. Mụ đã cám dỗ một bậc thánh. Cả hai thề nguyền mãi mãi bên nhau, không bao giờ thay đổi. Mối quan hệ của họ không thể kéo dài mà không tổn hại đến cả hai người. Mụ thuyết phục được ông ta rời bỏ xứ sở, Nhưng để rời bỏ xứ sở, để cùng nhau trốn đi, để đến được một miền khác trên đất Pháp, để có thể sống yên ổn, để không ai biết tới, thì cần phải có tiền, mà lại chẳng ai có. Vị linh mục liền lấy cắp các bình gốm thờ đem bán nhưng họ vừa cùng nhau chuẩn bị ra đi thì cả hai đều bị bắt. Tám ngày sau, mụ đã quyền rũ được con trai viên cai ngục và trốn thoát. Vị linh mục trẻ bị kết án mười năm gông xiềng và bị đóng dấu chín. Tôi là đao phủ thành Lilơ, như mụ ta đã nói. Tôi phải đóng dấu phạm nhân và thưa các vị, phạm nhân chính là em trai tôi. Thế là tôi thề rằng con đàn bà đã làm nó chết, còn tệ hơn là kẻ đồng lõa của nó, vì lẽ mụ đã đẩy nó đến chỗ phạm tội thì ít nhất mụ cũng phải chia sẻ sự trừng phạt. Tôi ngờ nơi mụ trốn, và truy đuổi, rồi tóm được mụ, tôi gô cổ mụ lại và cũng in dấu sắt nung vào mụ như đã in vào em trai tôi. Hôm sau tôi trở lại Lilơ, em trai tôi cũng lại trốn mất, người ta buộc tội tôi thông đồng và xử tôi bị tù thay chừng nào em tôi vẫn ngoài vòng pháp luật. Thằng em trai khốn khổ của tôi không biết việc xét xử đó, nó lại gặp được mụ đàn bà ấy, rồi cùng nhau trốn ở Bery và ở đó nó được nhận chân mục sư nhỏ. Mụ đàn bà được coi là em gái nó. Vị lãnh chúa trong vùng có ngôi nhà thờ của mục sư đó thấy cô em gái giả vờ đó, đem lòng si mê, đến mức ngỏ lời cầu hôn. Thế là mụ bỏ phéng ngay kẻ mụ đã làm hại để chạy theo kẻ mụ phải làm hại và trở thành nữ Bá tước de la Fe". Mọi con mắt lại đổ dồn về Athos, mà cái tên đó mới đích thực là tên chàng. Chàng gật đầu tỏ ý mọi điều người đao phủ nói đều đúng cả. - Thế rồi - người này nói tiếp - thất vọng, điên dại, thằng em trai khốn khổ của tôi quyết định rũ bỏ cuộc đời mà mụ ta đã lấy đi tất cả danh dự, hạnh phúc, trở lại Lilơ mới hiểu ra tôi đã bị án quyết tù thay, nên nó đã ra đầu thú và ngay tối ấy đã treo cổ dưới lỗ thông hơi của xà lim. Tóm lại, cũng là công bằng đối với chúng thôi. Những người đã kết án tôi đã giữ lời hứa. Tử thi được xác nhận là họ trả tự do cho tôi ngay. Đó là tội ác tôi buộc tội mụ, và đó là nguyên nhân mụ bị đóng dấu nung. Athos nói: - Ông D Artagnan, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì? - Tử hình! - D Artagnan đáp. Athos tiếp tục: - Huân tước De Winter, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì? - Tử hình! - De Winter lặp lại. - Các vị Porthos và Aramis - Athos hỏi tiếp - Các vị là các thẩm phán, các vị xử mụ đàn bà này hình phạt gì? - Tội tử hình - cả hai đều trả lời bằng một giọng khàn khàn. Milady rú lên một tiếng ghê rợn và lê gối đến trước mấy người xét xử. Athos giơ thẳng cánh tay chỉ vào mặt mụ và nói: - Sáclốt Bêchxơn, nữ Bá tước de la Fe, Milady de Winter, tội ác của mụ đã làm mệt mỏi người trên trần thế. Chúa ở trên trời. Nếu mụ biết vài lời cầu nguyện, thì hãy cầu đi, bởi mụ đã bị kết án tử hình và mụ sắp chết rồi. Nghe nói vậy, thấy không còn chút hy vọng nào nữa, mụ đứng thẳng người lên định nói, nhưng không còn đủ sức. Mụ thấy có một bàn tay mạnh mẽ và không đội trời chung tóm lấy tóc mụ, lôi mụ đi không thể nào cưỡng lại như định mệnh lôi một con người. Mụ cũng chẳng thèm chống cự lại nữa và ra khỏi túp lều tranh. Huân tước De Winter, D Artagnan, Athos Porthos và Aramis ra theo phía sau. Những người hầu cũng đi theo chủ và căn phòng lại đơn độc với chiếc cửa sổ vỡ, cổng mở và ngọn đèn bốc khói đang hắt hiu cháy trên mặt bàn. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:55 | |
| Chương 66
Hành quyết.
Đã gần nửa đêm, mảnh trăng khuyết hạ tuần như nhuốm máu bởi những dấu vết cuối cùng của cơn giông tố, nhô lên sau cái thị trấn nhỏ Acmăngchie, làm nổi bật trong ánh trăng nhợt nhạt bóng dáng âm u các ngôi nhà và cái gác chuông cao lênh khênh như một bộ xương người. Phía trước mặt dòng sông Litx cuồn cuộn chảy như một dòng thiếc nóng, còn phía bờ bên là một khối đen sì cây cối hiện ra dưới bầu trời giông tố vẫn còn ngổn ngang những đám mây lớn màu đồng thau, tạo thành một cảnh hoàng hôn giữa ban đêm. Bên trái nổi lên một chiếc cối xay cũ bỏ hoang, với bộ cánh gió im lìm, trong chốn hoang phế ấy vang lên tiếng the thé, từng hồi và đơn điệu của một con cú mèo. Đây đó, trong cánh đồng, bên trái và bên phải con đường mà đám rước tang tóc ấy đang đi, hiện ra mấy cây thấp, mập giống như những thằng lùn dị dạng đang ngồi xổm để rình xem mọi người vào cái giờ thê lương ấy. Thỉnh thoảng một lúc đám chớp lớn lại sáng lòa khắp chân trời và ngoằn ngoèo trên những đám cây đen ngòm, giống như một lưỡi đao khủng khiếp phạt đứt bầu trời và mặt nước ra làm hai mảnh. Không một làn gió nhẹ lướt qua vùng không khí nặng nề. Một sự im lìm chết chóc đè nặng lên tạo vật. Đất ẩm ướt và trơn tuột vì trời mưa. Cỏ cây như sống lại càng bốc nặng mùi hương. Hai người hầu lôi Milady, mỗi người giữ một cánh tay, đao phủ đi sau, Huân tước De Winter, D Artagnan, Athos, Porthos và Aramis bước sau đao phủ. Planchet và Bandanh đi sau cùng. Hai người hầu lôi Milady tơi bờ sông. Miệng mụ câm như hến, nhưng đôi mắt mụ lại nói lên một cách hùng hồn khó tả như thể lần lượt van xin những người mà mụ đang nhìn. Vì mụ đi trước mấy bước(1) mụ bảo mấy người hầu: - Một nghìn Pitxtôn cho mỗi người các anh, nếu để cho tôi trốn. Còn nếu các anh nộp tôi cho chủ các anh (?) tôi có ở gần đây những kẻ báo thù sẽ bắt các anh phải trả giá đắt cái chết của tôi. Grimaud lưỡng lự, Mousqueton run hết cả tứ chi lên. Athos nghe thấy Milady nói vậy vội đến gần ngay. Huân tước De Winter cũng vậy. Ông ta nói: - Đổi mấy tên người hầu này đi thôi, mụ ta đã nói với chúng, không tin được chúng nữa. Planchet và Bazin được gọi lên thay chỗ cho Grimaud và Mousqueton. Đến bờ sông, đao phủ lại gần Milady, trói chân và trói tay mụ lại. Bấy giờ mụ mới phá tan sự im lặng kêu lên: - Chúng bay là những thằng hèn, chúng bay là những tên khốn nạn giết người. Chúng bay phải tới mười người để cắt cổ một người đàn bà, hãy coi chừng, nếu tao không được cứu thì tao sẽ được trả thù. - Mụ không phải là một người đàn bà - Athos lạnh lùng nói - mụ không thuộc giống người, mụ là một loài yêu quái trốn thoát khỏi địa ngục và chúng ta sắp tống mụ trả về đấy. - Chà các trang nam nhi đức hạnh! - Milady nói - Hãy coi chừng, kẻ nào động đến một sợi tóc trên đầu tao, thì kẻ ấy mới là tên sát nhân. - Đao phủ có thể giết, nhưng không vì thế mà là một kẻ sát nhân - Người mặc áo choàng đỏ vừa nói vừa vỗ vào thanh kiếm rộng bản của mình - đây là vị quan tòa cuối cùng, có thế thôi: - Nachrichter(2) như những ông bạn láng giềng Đức chúng ta vẫn nói ấy mà. Nghe đao phủ vừa nói như thế vừa trói mình, Milady kêu lên hai ba tiếng man rợ tạo nên một hiệu quả u ám dị thường bay trong đêm tối và chìm dần trong rừng thẳm. - Nhưng nếu tao là tội phạm, nếu tao mắc những tội mà chúng bay cáo buộc - Milady gào lên - thì phải đưa tao ra trước một tòa án, chúng bay không phải là các quan tòa để có thể kết tội tao. - Ta đã đề nghị Tybum cho mụ - Huân tước De Winter - tại sao mụ lại không muốn? - Bởi tôi không muốn chết - Milady vừa hét lên vừa giãy giụa - Bởi tôi còn quá trẻ không chết được. - Người đàn bà bà đã đầu độc ở Bêtuyn còn trẻ hơn bà đấy, thế nhưng người ấy đã chết rồi - D Artagnan nói. - Tôi sẽ vào nhà tu kín, tôi sẽ bắt mình đi tu? - Milady nói. - Mụ đã từng ở trong một nhà tu kín - đao phủ nói - và mụ đã ra khỏi đó để làm hại em ta. Milady kêu lên một tiếng hãi hùng và quỵ xuống. Đao phủ xốc nách mụ lên và định lôi mụ xuống đò. - Ôi, Chúa ơi - Mụ kêu lên - lạy Chúa! Các người định dìm chết ta ư? Tiếng kêu đó cũng có đôi chút não lòng khiến D Artagnan là người hăng hái nhất trong việc truy đuổi Milady, cũng thẫn thờ đến tựa vào một gốc cây, đầu cúi xuống, lấy hai tay bịt tai lại, thế nhưng, mặc dù làm vậy, chàng vẫn nghe tiếng mụ hăm dọa và kêu khóc. D Artagnan là người trẻ nhất trong tất cả bọn họ, nên không sắt đá nổi. - Ôi! Tôi không thể nhìn cái cảnh tượng hãi hùng này! Tôi không thể bằng lòng với cảnh người đàn bà này chết như thế này? Milady nghe thấy mấy câu nói đó, mụ lại lấy lại được chút tia hy vọng. - D Artagnan! D Artagnan!- Mụ kêu lên - chàng nhớ là em đã yêu chàng chứ! Chàng trai trẻ đứng lên và tiến một bước về phía mụ. Nhưng Athos cũng đứng dậy, rút gươm ra chặn D Artagnan lại và nói: - D Artagnan, nếu cậu tiến thêm một bước, chúng ta sẽ phải so gươm với nhau đấy. D Artagnan quỳ xuống và cầu nguyện. - Thôi nào, đao phủ - Athos tiếp tục - làm phận sự của mình đi. - Xin sẵn sàng, thưa Đức ông - đao phủ nói - bởi cũng đúng như việc tôi là một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo, tôi tin tưởng vửng chắc rằng tôi rất chân chính khi hoàn thành chức năng của tôi đối với mụ đàn bà này. - Tốt lắm. Athos bước một bước lại phía Milady. - Ta tha thứ cho bà - chàng nói - về cái ác bà đã làm đối với ta, ta tha thứ cho bà làm tương lai ta tan nát, hạnh phúc ta mất mát, tình yêu ta nhơ bẩn và sự cứu rỗi linh hồn ta mãi mãi bị tổn hại bởi nỗi tuyệt vọng mà bà đã ném ta vào. Hãy chết cho bình yên. Đến lượt mình, Huân tước De Winter cũng tiến lên và nói: - Ta tha thứ cho bà đã đầu độc anh trai ta, đã ám sát Quận công De Buckingham, ta tha thứ cho bà về cái chết của gã Felten tội nghiệp, ta tha thứ cho bà về những mưu đồ ám hại chính bản thân ta. Hãy chết cho bình yên. - Còn tôi - D Artagnan nói - xin bà hãy tha thứ cho tôi, đã dùng một ngón giảo quyệt không xứng với một nhà quý tộc, khiêu khích bà nổi giận, và đổi lại, tôi cũng tha thứ cho bà việc giết hại người bạn gái đáng thương của tôi và những sự trả thù tàn bạo của bà đối với tôi, tôi tha thứ cho bà và cũng khóc thương bà. Bà hãy chết bình yên. - I am lost! - Milady lẩm bẩm bằng tiếng Anh - I must die(1). Rồi mụ tự đứng dậy nhìn xung quanh với con mắt rực lửa. Nhưng mụ không nhìn thấy gì hết. Mụ lắng nghe, nhưng cũng không nghe thấy gì hết. Mụ chỉ có xung quanh mình toàn là kẻ thù. - Tôi sẽ chết ở đâu? - Mụ hỏi. - Ở bờ sông bên kia - Đao phủ đáp. Rồi đao phủ lôi mụ xuống đò, khi anh ta vừa bước chân xuống đò, Athos trao cho anh ta một số tiền. - Cầm lấy - chàng nói - đây là tiền công hành quyết. Để cho mọi người thấy chúng tôi hành động như những quan tòa. - Được thôi - đao phủ nói - và bây giờ để người đàn bà đến lượt mình cũng hiểu rằng không phải tôi hoàn thành một việc có tính chất nghề nghiệp mà là nghĩa vụ của tôi. - Và hắn ta ném số tiền ấy xuống sông. Đò xa dần sang bờ trái sông Litx, mang theo kẻ tội phạm và người hành quyết. Mọi người khác đều ở lại bên bờ phải và cùng quỳ xuông. Con đò lướt đi chầm chậm theo dọc dây chăng qua sông của bến đò, dưới ánh phản quang của một đám mây nhợt nhạt lúc này đang chiếu xiên ngang mặt nước. Thuyền đã cặp bờ bên kia, những bóng người in lên một màu đen trên nền chân trời màu đỏ nhờ. Milady trong lúc sang sông đã cởi được thừng trói chân mình. Tới bờ này, mụ nhẹ nhàng nhảy lên bờ chạy trốn. Nhưng đất ướt, lên hết dốc, mụ bị trượt chân ngã khuỵu xuông. Một ý nghĩ mê tín chắc hẳn đã tác động mạnh đến mụ. Mụ hiểu rằng trời đã không dung mụ nữa, nên cứ ngồi nguyên như thế, đầu gục xuống và hai tay chắp lại. Lúc đó, từ bờ kia nhìn sang mọi người thấy đao phủ từ từ nâng cao hai cánh tay lên, ánh trăng phản chiếu trên lưỡi đao rộng bản rồi hai cánh tay hạ xuống, người ta nghe thấy tiếng rít của lưỡi đao và tiếng kêu của nạn nhân, rồi một khối thịt mất đầu vật xuống. Đao phủ liền cởi chiếc áo choàng đỏ trải ra đất, đặt thi thể nằm xuống, ném cái đầu vào, túm lại bốn góc khoác lên vai và bước xuống đò. - Đến giữa dòng sông Litx, anh ta cho dừng đò lại, nâng cái bọc nặng lên trên mặt sông và hét lên rất to: - Xin để cho Chúa phán xử! Và anh ta buông cái xác cho rơi xuống đáy sông, và cho dòng nước khép lại. Ba ngày sau, bốn chàng ngự lâm trở lại Paris, và vẫn còn trong thời hạn nghỉ phép. Ngay tối đó, như thường lệ, họ tới thăm ông De Treville. - Thế nào? Các vị - Ông đại úy tử tế hỏi họ - các vị thỏa thích trong chuyến đi chơi xa chứ? Athos thay mặt cho tất cả các bạn trả lời: - Tuyệt diệu ạ! Chú thích: (1) Mỗi người hầu giữ một bên cánh tay thì không thể đi trước mấy bước. mà chỉ có thể đl ngang nhau (2) Tục lệ cổ của người Đức khi hành quyết đều hô lên tiếng đó. Nachrichter có nghĩa; "đây là kẻ đến sau quan tòa" (3) Tiếng Anh có nghĩa: Ta thua rồi - ta phải chết thật rồi. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:56 | |
| Kết luận. Ngày mồng sáu tháng sau, giữ lời hứa với Giáo chủ rời khỏi Paris trở lại La Rochelle, nhà Vua ra khỏi kinh thành lúc còn rất đỗi bàng hoàng về tin tức vừa lan đến là Buckingham bị ám sát. Cho dù đã được báo trước người đàn ông mình yêu biết bao gặp nguy hiểm. Hoàng hậu, khi người ta báo tin cái chết ấy, vẫn không chịu tin, lại còn bất cẩn kêu lên: - Thất thiệt! Ông ấy vừa viết thư cho ta! Nhưng hôm sau thì bà đành phải tin cái tin thảm khốc đó. La Port cũng như mọi người khác bị giữ chân lại ở Anh theo lệnh của Vua anh Charles đệ nhất, đã trở về mang theo món quà cuối cùng, tang tóc mà Buckingham gửi cho Hoàng hậu. Nhà Vua vui mừng khôn tả. Ông chẳng tội gì giấu giếm niềm vui, lại còn cố ý làm rùm beng trước mặt Hoàng hậu, Louis XIII giống như mọi con tim hẹp hòi khác, thiếu sự đại lượng. Nhưng rồi nhà Vua lại trở nên u buồn và cáu bực ngay. Vầng trán Ngài không thuộc những vầng trán rạng rỡ được lâu dài. Khi trở lại trận tuyến, Ngài cảm thấy sắp sửa lại phải sống lệ thuộc, tuy nhiên Ngài vẫn trở lại. Giáo chủ đối với Ngài như con rắn biết thôi miên và Ngài là con chim chuyền từ cành này sang cành khác nhưng không thể thoát ra được. Vì vậy việc trở lại La Rochelle buồn sâu sắc. Nhất là bốn người bạn, họ làm cho đồng đội phải ngạc nhiên. Họ đi bên nhau, đầu cúi xuống, mắt u sầu. Chỉ có Athos thỉnh thoảng ngẩng vầng trán rộng lên, mắt long lanh, một nụ cười chua chát lướt trên môi, rồi lại như các bạn mình, phó mặc cho những ý nghĩ mơ màng. Đoàn hộ tống đi tới một thành phố, ngay sau khi hộ giá nhà Vua về tới nơi nghỉ lại, bốn người bạn lui về chỗ mình ở hoặc đến một tửu quán hẻo lánh nào đó, chẳng bài bạc cũng không chè chén mà chỉ nói nhỏ với nhau, chăm chú nhìn xem có ai để ý nghe mình nói không. Một hôm nhà Vua dừng lại ở dọc đường nhìn chim ác là bay, bốn người bạn theo thường lệ, đáng lẽ đi săn cùng, đã dừng lại trong một tửu quán cạnh đường cái, một người đàn ông phi nước đại từ La Rochelle tới, dừng lại ở cửa để uống một cốc rượu vang, phóng mắt nhìn vào tận bên trong nơi bốn chàng đang ngồi tại bàn. - Ô, ông D Artagnan! - Hắn nói - chẳng phải ông, tôi đang thấy đó sao? D Artagnan ngẩng đầu lên và reo lên mừng rỡ. Cái con người mà chàng gọi là con ma của chàng ấy chính là cái thằng cha căng chú kiết ở Măng, ở phố Phu đào huyệt, và ở Arát. D Artagnan rút gươm và lao ra cửa. Nhưng lần này thay vì chạy trốn, kẻ lạ mặt nhảy phắt từ ngựa xuống, và tiến đến đối mặt với D Artagnan. - Chà, thưa ông D Artagnan nói - cuối cùng thì tôi cũng gặp được ông, lần này thì ông không thoát nổi tôi đâu. - Tôi cũng có ý ấy đâu thưa ông, bởi lần này, tôi tìm ông, nhân danh đức Vua, tôi bắt ông. Ông hãy trao gươm cho tôi, và không được chống cự, sẽ mất đầu đấy, tôi báo cho ông biết vậy. - Vậy ông là ai? - D Artagnan vừa hỏi vừa hạ gươm xuống, nhưng vẫn chưa trao. - Tôi là hiệp sĩ De Rochefort - người lạ trả lời - tổng quản của Đức giáo chủ Richelieu, và tôi được lệnh áp giải ông đến chỗ Đức ông. - Thưa ông hiệp sĩ, chúng tôi đang quay về bên chỗ Đức ông - Athos vừa nói vừa tiến lại - và ông sẽ chấp nhận lời hứa của ông D Artagnan là ông ấy sẽ đi thẳng một mạch đến La Rochelle. - Tôi phải giao ông ấy cho lính cận vệ để giải ông ấy về doanh trại. - Chúng tôi sẽ làm cái việc ấy, thưa ông, xin lấy danh dự của các nhà quý tộc mà hứa đấy. Nhưng cũng xin lấy danh dự của các nhà quý tộc - Athos cau mày nói thêm - Ông D Artagnan sẽ không rời khỏi chúng tôi đâu. Hiệp sĩ De Rochefort liếc nhìn về phía sau đã thấy Porthos và Aramis đứng xen vào giữa hắn ta và cổng quán, nên hiểu rằng phải tuân theo bốn người đó. - Thưa các vị - hắn nói - nếu ông D Artagnan bằng lòng trao gươm cho tôi và cũng hứa như ông, tôi bằng lòng việc ông hứa dẫn ông D Artagnan tới hành dinh của Đức ông Giáo chủ. - Tôi hứa với ông như vậy - D Artagnan nói - gươm của tôi đây! - Thế thì càng tốt cho tôi - Rochefort nói thêm - tôi còn phải tiếp tục cuộc hành trình của tôi. - Nếu là để gặp Milady - Athos lạnh lùng nói - sẽ vô ích thôi, ông sẽ không gặp lại được nữa đâu. - Vậy bà ta ra sao rồi? - Rochefort vội hỏi. - Cứ trở về doanh trại rồi ông sẽ biết. Rochefort lặng lẽ đi một lát đăm chiêu. Rồi vì chỉ một ngày đường nữa là đến Xuyếcgie, nơi Giáo chủ đến yết kiến nhà Vua, hắn quyết định nghe theo lời khuyên của Athos và trở về cùng với họ. Vả lại việc quay trở lại cũng có ích cho hắn, đó là hắn đích thân giám sát được tù nhân của mình. Tất cả lại lên đường. Hôm sau, ba giờ chiều, họ đến Xuyếcgie. Giáo chủ đợi Louis XIII ở đó. Thủ tưởng và nhà Vua cực lực ve vuốt tán dương nhau, về dịp may ngẫu nhiên khiến nước Pháp rũ bỏ được một kẻ thù cuồng nhiệt đang xúi bẩy cả châu Âu chống lại mình. Sau đó, Giáo chủ vì đã được Rochefort báo cho biết D Artagnan đã bị bắt giữ, vội đến gặp chàng, nên đã xin cáo từ nhà Vua và mời nhà Vua ngày mai đến khánh thành công trình xây dựng con đê. Chiều tối, lúc trở về hành dinh ở Cầu Đá, Giáo chủ thấy D Artagnan đứng trước cổng ngôi nhà ông ở, không gươm, cùng với các bạn mình đều vũ trang đầy đủ. Lần này, vì ông đang ở thế mạnh, ông nghiêm khắc nhìn họ và giơ tay, liếc mắt ra hiệu cho D Artagnan đi theo mình. D Artagnan tuân theo. - Chúng mình đợi cậu đấy, D Artagnan - Athos cố tình nói to để Giáo chủ nghe thấy. Giáo chủ cau mày, dừng lại một lát, rồi lại đi tiếp không nói một lời. D Artagnan theo sau giáo chủ đi vào, và cửa được canh giữ ngay. Giáo chủ đi vào căn phòng dùng làm phòng làm việc và ra hiệu cho Rochefort dẫn D Artagnan vào. Rochefort vâng lời và rút lui. Còn lại một mình D Artagnan trước mặt Giáo chủ. Đây là cuộc gặp mặt lần thứ hai với Rochefort và chàng tự thú nhận chàng đã tin chắc đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng. Rochefort vẫn đứng tựa người vào lò sưởi, một chiếc bàn kê giữa ông ta và D Artagnan. - Này ông, - Giáo chủ nói - ta đã ra lệnh bắt ông. - Thưa Đức ông, người ta đã bảo tôi vậy. - Ông có biết tại sao không? - Không, thưa Đức ông, bởi điều duy nhất khiến tôi có thể bị bắt giữ, Đức ông còn chưa biết. Richelieu chăm chăm nhìn chàng trai trẻ: - Ra thế, thế nghĩa là thế nào? - Mong Đức ông vui lòng cho tôi biết trước những tội mà người ta buộc cho tôi, tôi sẽ nói những việc tôi đã làm sau. - Người ta buộc ông những tội mà ngay cả những người có địa vị cao hơn cả ông cũng phải mất đầu đấy! - Giáo chủ nói. - Thưa Đức ông, là những tội gì? D Artagnan hỏi với thái độ bình tĩnh khiến Giáo chủ cũng phải kinh ngạc. - Người ta đã buộc tội ông đã thông đồng với kẻ thù của vương quốc, buộc tội ông đã làm lộ bí mật quốc gia, buộc tội ông toan làm thất bại những kế hoạch đại tướng của ông. - Và ai buộc tội tôi như thế thưa Đức ông? D Artagnan nói - Và ngờ rằng đó là do Milady - một con đàn bà bị công lý của đất nước đóng dấu chín, một con đàn bà đã cưới một người đàn ông ở Pháp, và một người khác ở Anh, một con đàn bà đã đầu độc người chồng thứ hai và toan tính đầu độc chính tôi ư? - Ông nói gì thế? - Giáo chủ ngạc nhiên kêu lên - Và ông đang nói về mụ đàn bà nào thế? - Về Milady de Winter - D Artagnan trả lời - Vâng, về Milady de Winter, mà chắc hẳn Đức ông không biết mọi tội ác của mụ khi mà mụ ta có vinh dự được hưởng sự tin cẩn của ngài. - Này ông, Giáo chủ nói - nếu Milady de Winter phạm những tội ác như ông nói, mụ ta sẽ bị trừng phạt. - Thưa Đức ông, mụ đã bị trừng phạt rồi! - Ai đã trừng phạt mụ. - Chúng tôi. - Mụ ở trong tù à? - Mụ đã chết. - Chết! - Giáo chủ nhắc lại, chưa tin nổi những gì mình nghe thấy - Chết ư? Ông không nói mụ ta chết đấy chứ? - Ba lần mụ định giết tôi, và tôi đã tha thứ cho mụ. Nhưng mụ đã giết người đàn bà tôi yêu. Thế là các bạn tôi và tôi, đã bắt, xét xử và kết án mụ. D Artagnan liền kể lại việc đầu độc bà Bonacieux trong nữ tu viện Cácmel ở Bêtuyn, việc xét xử trong ngôi nhà hẻo lánh, việc hành quyết bên bờ sông Litx. Giáo chủ đâu phải là người dễ rùng mình, vậy mà người cứ run lên. Nhưng rồi bất ngờ một ý nghĩ thầm kín nảy sinh trong ông, Giáo chủ cho tới lúc này vẫn sa sầm, dần dần rạng rỡ lên, rồi hoàn toàn trong sáng hơn bao giờ hết. - Như vậy là - Giáo chủ nói bằng một giọng dịu dàng trái hẳn với tính chất nghiêm khắc của câu nói - các ông tự cho mình là quan tòa, không nghĩ rằng những kẻ nào không có nhiệm vụ trừng phạt mà lại đi trừng phạt đều là những kẻ sát nhân! - Thưa Đức ông, tôi xin thề với ngài rằng không giây phút nào, tôi có ý định chống lại ngài để giữ lấy cái đầu tôi. Đức ông muốn trừng phạt tôi thế nào, tôi cũng chịu. Tôi có thiết sống lắm đâu mà sợ chết. - Phải, ta biết điều đó, ông là một con người dũng cảm - Giáo chủ nói bằng một giọng gần như trìu mến - ta có thể nói trước với ông rằng ông sẽ bị xét xử, bị kết án nữa đấy. - Một kẻ khác đã có thể đảm bảo với Đức ông rằng hắn ta có lệnh đặc xá ở trong túi mình. Còn tôi, tôi vui lòng nói với ngài rằng xin Đức ông cứ ra lệnh, tôi đã sẵn sàng. - Đặc xá ông? – Richelieu kinh ngạc nói. - Vâng, thưa Đức ông - D Artagnan nói. - Và ai ký, nhà Vua ư? - và Giáo chủ thót lên câu nói ấy với vẻ miệt thị khác thường. - Đức ông hẳn nhận ra chữ ký của ngài. Và D Artagnan đưa cho Giáo chủ mẩu giấy quý giá mà Athos đã tước được của Milady, và chàng đã đưa cho D Artagnan dùng làm bùa hộ mệnh. Đức ông cầm mẩu giấy và chậm rãi đọc, nhấn mạnh vào từng vần: "Theo lệnh của ta và vì quyền lợi quốc gia, người mang giấy này đã làm điều người ấy phải làm. 3 tháng 12, 1672. Richelieu" Đọc xong hai dòng chữ ấy, Giáo chủ như rơi vào một giấc mơ sâu thẳm, nhưng không trả lại mẩu giấy cho D Artagnan. "Ông ta đang suy nghĩ xem dùng cực hình gì đối với ta đây - D Artagnan tự nhủ thầm. Được thôi, ta thề là ông ta sẽ thấy một nhà quý tộc chết như thế nào" Chàng lính ngự lâm trẻ tuổi đã suy tính rất tuyệt để chết một cách anh hùng. Richelieu vẫn suy nghĩ, cuộn vào rồi lại giở ra tờ giấy trong tay. Cuối cùng ông ngẩng đầu, trừng trừng đôi mắt chim ưng nhìn vào khuôn mặt trung trực, cởi mở, thông minh, đọc trên khuôn mặt ròng ròng nước mắt ấy những đau khổ mà anh ta phải chịu từ một tháng nay, và lần thứ ba hay thứ tư gì đó, ông lại nghĩ rằng thằng bé hai mốt tuổi này hẳn có tương lai biết mấy, và sự năng động của nó, lòng dũng cảm của nó, trí tuệ của nó sẽ cống hiến biết bao kế sách cho một người chủ tốt. Mặt khác, tội ác, quyền lực, và thiên tài yêu quái của Milady từng đã nhiều lần làm ông hoảng sợ. Ông cảm thấy như có một niềm vui thầm kín mãi mãi rũ bỏ được kẻ đồng mưu nguy hiểm đó. Ông chậm rãi xé tờ giấy mà D Artagnan đã hào hiệp trao cho ông. "Ta toi rồi" - D Artagnan tự nhủ. Và chàng cúi gập đầu trước Giáo chủ, như bảo ông: "Đức ông, ý của ngài đã được mãn nguyện!". Giáo chủ lại gần bàn, không ngồi, ghi thêm mấy dòng vào một tờ giấy đã viết kín đến hai phần ba rồi áp dấu. "Đây là bản án của mình đây - D Artagnan thầm nói - Ông ta tha cho mình vào ngục Bastille và việc lề mề xét xử. Cũng là tiện cho ông ta!". - Cầm lấy - Giáo chủ nói với chàng trai trẻ - ta lấy mất của ông tờ giấy khống chỉ, ta trả lại ông một tờ khống chỉ khác. Chưa có tên trên tờ chứng chỉ đó đâu, để tự ông sẽ điền vào. D Artagnan lưỡng lự cầm tờ giấy và liếc mắt nhìn qua. Đó là giấy phong hàm trung úy ngự lâm quân. D Artagnan quỳ xuống chân Giáo chủ nói: - Thưa Đức ông, sinh mệnh tôi thuộc về ngài. Từ nay xin tùy ngài sắp xếp, nhưng ân tình mà ngài ban cho tôi, tôi không xứng đáng đâu, tôi có ba người bạn đều xứng đáng và cao quý hơn tôi. - Ông là một chàng trai trung hậu, D Artagnan - Giáo chủ ngắt lời, thân mật vỗ vai chàng, sung sướng vì đã chinh phục được cái bản chất bất trị ấy - Ông thích thế nào thì cứ làm như thế. Có điều hãy nhớ rằng, tuy tên còn để trống, nhưng là ta cho ông đấy. - Tôi sẽ không bao giờ quên - D Artagnan đáp. - Đức ông có thể tin chắc như vậy. Giáo chủ quay lại và lớn tiếng gọi: - Rochefort! Hiệp sĩ hẳn vẫn ở đằng sau cánh cửa liền vào ngay. - Rochefort! - Giáo chủ nói - Ông xem ông D Artagnan này, ta đã nhận ông ta vào số những bạn bè của ta. Vậy hãy ôm hôn nhau, và hãy khôn ngoan nếu muốn giữ vững cái đầu. Rochefort và D Artagnan ôm hôn nhau qua quýt chút đầu môi, nhưng Giáo chủ vẫn đứng đó đang quan sát họ bằng con mắt soi mói. Họ ra khỏi phòng cùng một lúc. - Chúng ta còn gặp nhau, phải không ông? - Khi nào ông thích - D Artagnan nói. - Chắc sẽ có dịp thôi - Rochefort trả lời. - Hả? – Richelieu mở cửa ra hỏi. Hai người mỉm cười, bắt tay nhau và chào Giáo chủ. - Bọn mình bắt đầu sốt ruột rồi đấy - Athos nói. - Tôi đây mà, các bạn! - D Artagnan trả lời - không những được tự do mà còn được ân sủng nữa. - Cậu sẽ kể cho bọn mình nghe chứ? - Ngay tối nay. Quả vậy, ngay tối ấy, D Artagnan trở về lều Athos, thấy chàng đang uống cạn chai vang Tây Ban Nha, một việc mà tối tối chàng đều thành kính hoàn thành. D Artagnan kể lại mọi chuyện xảy ra giữa Giáo chủ và mình rồi rút trong túi ra cái chứng chỉ và nói: - Anh cầm lấy, anh Athos thân mến, cái đó rất hợp với anh. Athos mỉm một nụ cười hiền hậu và duyên dáng: - Anh bạn ơi - chàng nói - với Athos thế quá nhiều, với Bá tước de la Fe, lại là quá ít - cậu cứ giữ lấy cái giấy chứng chỉ đó, nó thuộc về cậu. Than ôi! Lạy chúa? Cậu đã phải mua nó khá đắt rồi. D Artagnan ra khỏi phòng Athos và vào phòng Porthos, chàng thấy Porthos ăn mặc rất lộng lẫy, áo quần đầy những đường thêu rực rỡ và đang soi mình trước gương. - Chà, chà! - Porthos nói - cậu đấy à, bạn thân mến! Cậu thấy bộ quần áo này có hợp với mình không? - Tuyệt lắm! - D Artagnan nói - nhưng tôi đến để đề nghị với anh một bộ quần áo còn hợp với anh hơn kia. - Quần áo nào? - Porthos hỏi. - Quân phục của trung úy ngự lâm quân! D Artagnan kể cho Porthos cuộc hội kiến với Giáo chủ và rút tờ chứng chỉ từ trong túi ra: - Cầm lấy, Porthos thân mến, anh hãy ghi tên anh vào đấy, và anh hãy là chỉ huy tất của tôi. Porthos đưa mắt đọc tờ chứng chỉ rồi trả lại cho D Artagnan làm chàng hết sức ngạc nhiên. - Đúng - Porthos nói - cái đó tôn mình lên rất nhiều nhưng mình sẽ chẳng có đủ thời gian lâu dài để hưởng cái ân huệ ấy đâu. Trong thời gian chúng ta viễn chinh tới Bêtuyn, ông chồng của bà Công tước của mình đã chết, thành thử cái két bạc của người quá cố đang dang hai tay đón mình, bạn thân mến ạ, mình sẽ cưới bà góa ấy. Coi đây, mình đang thử quần áo cưới mà, hãy giữ lấy chức trung úy, bạn thân mến. Giữ lấy. Và Porthos trả lại cho D Artagnan. Chàng trai trẻ lại vào phòng Aramis. D Artagnan thấy chàng đang quỳ trước ghế đọc kinh, trán tựa vào cuốn sách kinh đã mở. D Artagnan kể cho chàng nghe cuộc gặp gỡ với Giáo chủ, và lần thứ ba rút tờ chứng chỉ từ trong túi ra và nói: - Anh, người bạn của tất cả chúng tôi, ánh sáng của chúng tôi, người che chở vô hình của chúng tôi, anh hãy nhận cái chứng chỉ này, anh xứng đáng với nó hơn bất kỳ ai bởi sự thông thái của anh và những lời khuyên của anh luôn luôn đem theo những thành công may mắn. - Ôi chao! Bạn thân mến - Aramis nói - cuộc phiêu lưu cuối cùng của chúng ta đã làm tôi hoàn toàn chán ngán sự đời và gươm giáo rồi. Lần này, ý nguyện của tôi không thể lay chuyển nữa. Sau cuộc vây hãm thành La Rochelle này, tôi sẽ vào giáo đoàn truyền giáo(1). Hãy giữ lấy cái chứng chỉ đó, D Artagnan, nghề binh đao phù hợp với cậu, cậu sẽ trở thành một đại úy can trường và bất chấp mọi hiểm nguy. D Artagnan rơm rớm nước mắt tỏ lòng biết ơn và rạng rỡ vui mừng, trở lại chỗ Athos, thấy chàng vẫn ngồi bàn và đang soi cốc rượu Malaga cuối cùng trước ánh đèn. - Thế đấy? Họ cũng vậy, đều từ chối tôi cả? - Chính là vì không ai xứng đáng với nó hơn cậu, bạn thân mến ạ. Và Athos cầm một chiếc bút ghi tên D Artagnan lên tờ chứng chỉ rồi trao cho chàng. - Vậy tôi sẽ không còn có bạn bè nữa - chàng trai trẻ nói - Ôi thôi! Không còn gì nữa, chỉ còn những kỷ niệm cay đắng… Rồi chàng gục đầu vào hai lòng bàn tay, nước mắt ròng ròng trên hai gò má. - Cậu còn trẻ - Athos trả lời - và những kỷ niệm cay đắng của cậu sẽ có đủ thời gian để đổi thành những kỷ niệm ngọt ngào! Chú thích: (1) Lazaristes: giáo đoàn của các giáo sĩ đi truyền đạo ở khắp nơi. |
| | | DraNYC
Tổng số bài gửi : 1864 Birthday : 26/09/1995 Age : 29 Đến từ : Hà Nội
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas 28/1/2010, 15:57 | |
| Phần chót. La Rochelle, mất đi sự cứu trợ của hạm đội Anh và của sư đoàn mà Buckingham đã hứa hẹn, đã đầu hàng sau một năm bị vây hãm. Ngày 28 tháng mười năm 1628, người ta ký kết đầu hàng. Nhà Vua trở về Paris ngày 23 tháng mười hai năm ấy. Người ta tổ chức lễ khải hoàn như thể vừa chiến thắng quân thù chứ không phải thắng người Pháp. Nhà Vua đi vào ngoại ô Thánh Giắc qua những cổng chào xanh rờn hoa lá. D Artagnan đã nhận chức vụ của mình, Porthos giải ngũ và năm sau cưới bà Coquenard, cái két sắt thèm thuồng bấy lâu nay chứa những tám trăm ngàn quan. Mousqueton được nhận một bộ chế phục lộng lẫy, và lấy làm thỏa mãn vì đã thực hiện được cái tham vọng suốt đời là được trèo lên phía sau một cỗ xe mạ vàng. Aramis, sau một chuyến du hành đến Loren, bất ngờ biến mất và thôi không viết thư cho bạn bè. Mãi sau, do bà De Chevreuse nói cho hai ba người tình của bà, mới biết chàng đã thụ giáo ở tu viện Năngxy. Bazin trở thành thầy dòng. Athos vẫn ở lại ngự lâm quân dưới quyền chỉ huy của D Artagnan đến năm 1631, sau một chuyến du lịch đến Loren, chàng cũng rời quân ngũ mượn cớ vừa được thừa hưởng một gia tài nhỏ ở Rutxiông. Grimaud đi theo Athos. D Artagnan ba lần đấu với Rochefort và cả ba lần đều làm ông ta bị thương. - Có thể lần thứ tư tôi sẽ giết ông đấy - chàng vừa bảo ông ta vừa đưa tay nâng dậy. - Vậy thì sẽ tốt hơn cho cả ông lẫn cả tôi là chúng ta dừng lại ở lần này thôi - người bị thương trả lời - Mẹ kiếp! Tôi là bạn ông hơn là ông nghĩ đấy, bởi ngay từ lần đầu chạm trán với ông, tôi chỉ cần nói với Giáo chủ một câu là ông đã có thể bị chặt đầu rồi. Lần này họ ôm hôn nhau, nhưng thật lòng và không một chút ẩn ý. Planchet nhận được ở Rochefort chức đội trưởng trong đội cận vệ. Ông Bonacieux sống rất bình yên, hoàn toàn không biết vợ mình đã ra sao, và cũng chẳng quan tâm mấy đến việc đó. Một hôm ông ta bất cẩn đi nhắc lại việc đó với Giáo chủ. Giáo chủ trả lời ông ta rằng Ngài sắp chu cấp cho ông ta để từ nay sẽ không bao giờ thiếu thốn cái gì nữa. Quả nhiên, ngày hôm sau, bẩy giờ tối, ông Bonacieux ra khỏi nhà để đi đến điện Louvre, rồi không bao giờ thấy xuất hiện lại ở phố Phu đào huyệt nữa. Theo giới thạo tin thì ông đã được nuôi dưỡng và cư trú ở một vương phủ nào đó do Đức ông hào phóng tài trợ. Hết. |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas | |
| |
| | | | Ba chàng lính ngự lâm - Alexandre Dumas | |
|
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|